Vào
cuối những năm 1980, Trung Quốc ở trong tình trạng
đầy phấn khích và đầy khả năng khi mà các luồng
tư tưởng mới, quyền tự do cá nhân, và các cơ hội
kinh tế chảy ồ ạt vào từ Tây phương như một
dòng sông cuốn đi những rác rưởi của cuộc Cách
mạng Văn hóa do Mao khởi xướng.
Trong
những năm đầy hy vọng này, tôi là thành viên của
một nhóm các lãnh đạo sinh viên trẻ đứng ra kêu
gọi cải cách chính trị để hợp với tư duy mới
và đưa Trung Quốc đàng hoàng vào với thế giới
hiện đại. Chúng tôi đã tổ chức các cuộc biểu
tình và đọc diễn văn tại các trường học và các
quảng trường trên khắp đất nước, và chúng tôi
nhiệt thành tin rằng giới lãnh đạo cao cấp nhất
của đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ lắng nghe. Thay
vào đó, phong trào của chúng tôi đã bị nghiền nát
bằng làn súng xe tăng và những sự kiện bi thảm
ngày 4 tháng 6 năm 1989 tại quảng trường Thiên An
Môn, mà rất nhiều bạn đã kinh hoàng thấy trên TV.
Ngày
đó, nhiều thứ bị mất đi - không những chỉ mất
mạng sống của rất nhiều người Trung Quốc dũng
cảm mà chúng ta khóc thương mà còn mất cơ hội có
một không hai để được sống tự do trong một
Trung Quốc dân chủ với tương lai tươi sáng lạn
nhất.
Không
lâu sau cuộc thảm sát tại quảng trường Thiên An
Môn, tôi bị bắt giam, và cộng với hàng ngàn người
biểu tình khác, đã phải chịu nhiều tháng bị tra
tấn và ngược đãi. Trong thời kỳ đen tối này,
tại nhiều nơi cực kỳ đen tối (hắc ám) khác
nhau, nhiều bạn bè tôi đã chết; và cho đến hôm
nay, một số nạn nhân Thiên An Môn còn sống sót vẫn
đang còn bị lưu đày trong tù ngục hay trong các trại
cưỡng bức lao động.
Buồn
thay, cả một thế hệ mới của thanh niên Trung Quốc
chẳng biết điều gì đã xảy ra tại Thiên An Môn.
Trong khi chúng ta sống ở Tây phương có thể tự do
xem các đoạn video và hình ảnh trên mạng Internet
liên quan đến vụ thảm sát, thì toàn bộ các tài
liệu đó đã bị “tẩy rửa” theo đúng lễ nghi
quan cách khỏi mạng Internet ở Trung Quốc bằng một
đội quân kiểm duyệt hùng hậu.
Cho
đến nay tôi đã trải qua nửa đời người chiến
đấu chống lại sự kiểm duyệt đó và đấu tranh
cho tự do và dân chủ ở Trung Quốc. Hơn lúc nào
hết, tôi nhiệt thành tin rằng bất cứ ai có lý trí
ở bên ngoài Trung Quốc phải hiểu rõ được điều
này:
Hơn
hai thập niên sau sự kiện Thiên An Môn, con hổ toàn
trị vẫn không hề thay đổi các sọc vằn của nó.
Thực vậy, khác hẳn với các quốc gia đã ổn định,
sự chi tiêu của Trung Quốc cho công an và kiểm soát
xã hội hiện đang ngày càng tăng, nhanh hơn cả ngân
sách quốc phòng vốn đã tăng vùn vụt của Trung
Quốc!
Tôi
thấy thật là điều mỉa mai hay đáng phẫn nộ khi
thấy rằng chính nhiều quan chức đảng Cộng sản
ngày xưa đã giám sát việc đánh đập, bỏ tù, và
giết hại các bạn sinh viên của tôi trong sự kiện
Thiên An Môn nay lại điều khiển sự bức hại không
thương xót đối với các tín đồ tôn giáo như Pháp
Luân Công (Falun Gong) và sự đàn áp tàn nhẫn các
dân tộc thiểu số hòa bình như người Tây Tạng
(Tibetants) và người Duy Ngô Nhĩ (Uighurs). Cũng chính
đảng Cộng sản Trung Quốc đã cấp thời đàn áp
mọi phong trào đối kháng chính trị như bản Tuyên
ngôn Hiến chương 08 và Phong trào Cách mạng Hoa Lài
đang lên. Chỉ có một thay đổi là bè lũ cầm quyền
của thế kỷ mới này – hơn bao giờ hết - xảo
quyệt hơn, lén lút hơn, và dùng kỹ thuật tinh vi
hơn.
Ngày
nay, khi tôi đang sống thoải mái, an toàn, và tự do
ở thành phố New York, tôi có thể hiểu được tại
sao những người Tây phương lại khó có thể thấy
rõ rằng đảng Cộng sản Trung Quốc là kẻ thù nguy
hiểm – cho cả cho nhân dân Trung Quốc lẫn những
dân tộc khác thế giới. Xét cho cùng, các nhà lãnh
đạo ở Bắc Kinh trông có vẻ rất dễ mến trên
TV, và ngày nay theo một chiến lược định sẵn họ
cố gắng không lải nhải chống Tây phương như thời
của Mao.
Nhưng
sự thật là sự thật, và chân lý vẫn là chân lý.
Và khi các trang sách này lần lượt được mở ra,
bạn sẽ đối mặt với từ sự thật này đến sự
thật rành rành khác rằng kẻ cai trị ở Bắc Kinh
vẫn tiếp tục đàn áp hung bạo những tiếng nói
của chính người dân Trung Quốc ngay cả khi họ -
một cách có hệ thống – làm tràn ngập thế giới
bằng các hàng hóa nguy hiểm, sử dụng một loạt
các vũ khí tác hại của chủ nghĩa con buôn và chủ
nghĩa bảo hộ để hủy hoại nền kinh tế của Hoa
Kỳ và Tây phương, và nhanh chóng trang bị vũ trang
bằng những hệ thống vũ khí tốt nhất mà mạng
lưới gián điệp tinh vi của họ có thể ăn cắp
được từ Ngũ Giác Đài.
Tôi
cũng có thể hiểu tại sao những sự thực phũ phàng
khiến cho ta thức tỉnh này lại có thể không ăn
nhập gì với kinh nghiệm cá nhân của bạn. Khi du
lịch đến Trung quốc, bạn có thể đã có một
chuyến đi vui thích xuôi dòng Dương Tử, bị mê hoặc
bởi đạo quân đất nung tại lăng Tần Thủy Hoàng,
hứng khởi bước dọc theo Vạn Lý Trường Thành,
hay bị hoàn toàn thu hút bởi Tử Cấm Thành. Hoặc
thậm chí bạn có thể là một giám đốc kinh doanh
người Mỹ ở Thượng Hải hay Thâm Quyến kiếm được
bộn tiền và được thiết đãi các bữa tiệc thịnh
soạn mà chẳng có lý do ngoài việc ngắm bầu trời
trong xanh và một con đường gạch vàng trước mặt.
Đáng tiếc là, hầu hết người Mỹ chưa bao giờ
nhìn thấy một mặt khác của Trung Quốc và người
dân Trung Quốc đã phải trả giá như thế nào cho
tất cả sự “tiến bộ” này với một hệ thống
sinh thái bị hủy hoại tàn khốc, tham nhũng, bất
công xã hội, nhân quyền bị xâm phạm, thực phẩm
độc hại, và quan trọng nhất là sự băng hoại tâm
hồn con người.
Mặc
dù tôi nhớ Trung Quốc, nhưng Hoa Kỳ đã trở thành
mái nhà thân yêu thứ hai của tôi; và sự hỗ trợ
của người vợ đẹp cho tôi thấy hằng ngày rằng
tại sao Hoa Kỳ là quốc gia hùng mạnh nhất thế
giới. Tôi cũng thấy sức mạnh này ở rất nhiều
điều nhỏ bé ở Hoa Kỳ, ví dụ như dòng chữ trên
bửng xe hơi: “Tự do không phải miễn phí”
(Freedom is not free).
Cá
nhân tôi biết rất rõ câu nói trên là thật đến
thế nào. Tôi cũng biết rằng cái giá của tự do
không phải lúc nào cũng đánh nhau bằng quân sự. Mà
nó còn bao gồm những sự hy sinh cá nhân, chính trị
và kinh tế để tranh đấu một cách hòa bình cho các
quyền con người và dám bảo vệ những nguyên tắc
tự do và dân chủ.
Sẽ
không bao giờ là một sự lựa chọn sai lầm khi đòi
hỏi rằng chúng ta phải sống xứng đáng với những
nguyên tắc ấy như hai tác giả Peter Navarro và Greg
Autry đã nêu ra trong cuốn sách gây xúc động sâu xa
này. Chính điều đó giải thích tại sao đã đến
lúc các công dân của thế giới phải thực sự đứng
về phía nhân dân Trung Quốc - chứ không phải là về
phía chế độ hà khắc và lỗi thời dã man đang cai
trị họ. Nếu có một sự thật vĩnh viễn còn nổi
bật lên sau sự kiện Thiên An Môn, thì sự thật đó
là chỉ có một nước Trung Quốc tự do và dân chủ
mới có thể làm lợi cho thế giới.
Baiqiao
Tang, người biểu tình tại quảng trường Thiên An
Môn và là đồng tác giả của cuốn “Hai nước
China của tôi: Hồi ký của một tên phản cách mạng
Trung Quốc”, New York ngày 23/03/2011.
Chương
1
Phần
I: Người mua hãy cực kỳ cảnh giác
Chẳng
phải đả kích Trung Quốc, nếu đó là sự thật |
|
Chết
dưới tay Trung Quốc. Đây là mối hiểm nguy rất
thực mà giờ đây tất cả chúng ta phải đối mặt
khi quốc gia đông dân nhất và nền kinh tế sẽ sớm
trở thành lớn nhất thế giới này đang nhanh chóng
biến thành sát thủ lợi hại nhất hành tinh.
Về
mặt an toàn của người tiêu dùng, các thương gia vô
đạo đức Trung Quốc đang làm tràn ngập thị trường
thế giới với một loạt sản phẩm, thực phẩm,
dược phẩm chết người, không gây gẫy xương, làm
ung thư, thì cũng dễ cháy, và độc hại.
Về
đồ dùng cho trẻ em, những sản phẩm nguy hiểm này
bao gồm từ vòng đeo tay, dây chuyền và đồ chơi
chứa chì đến đồ ngủ dễ cháy, áo-liền-quần
độc hại của trẻ em mới biết đi.
Ở
tiệm thuốc Tây gần nhà hay trực tuyến trên mạng,
ta có thể tìm thấy tất cả các phương thức "chữa
trị" mà thực ra là giết người - từ viên
aspirin nhiễm độc, Lipitor giả, Viagra giả trộn với
strychnine đến thuốc heparin phá thận và vitamin chứa
đầy arsenic.
Nếu
bạn mơ tưởng đến cái chết do nổ, hỏa hoạn
hay điện giật, bạn có thể chọn trong một loạt
dụng cụ mìn bẫy từ ổ cắm với dây điện nối
dài, quạt, đèn, bộ phận điều khiển từ xa, điện
thoại di động dễ nổ, và máy nghe nhạc công suất
lớn tự hủy.
Dĩ
nhiên, nếu vừa đói vừa muốn tự tử, ta luôn
luôn có thể thưởng thức cá, trái cây, thịt hay
rau nhập cảng từ Trung Quốc ngấm ngon lành bằng
đủ mọi cách các kháng sinh bị cấm, vi khuẩn gây
thối rữa, kim loại nặng, hay thuốc trừ sâu bất
hợp pháp.
Ngay
cả trong khi hàng nghìn người chết bởi sự tấn
công dữ dội của các sản phẩm rác rưởi và độc
hại của Trung Quốc, thì nền kinh tế và công nhân
Hoa Kỳ cũng đang chịu đựng "cái chết không
kém phần đau đớn là sự tử vong của nền tảng
sản xuất của Hoa Kỳ".
Về
mặt kinh tế, nhãn hiệu quái đản "Tư bản Quốc
doanh" theo kiểu cộng sản của Trung Quốc đã
hoàn toàn xé bỏ những nguyên tắc của cả thị
trường tự do và thương mại tự do. Thay vào đó,
"các vị cứu tinh" của quốc gia được
chính phủ hỗ trợ của Trung Quốc đã triển khai
một hỗn hợp vũ khí thuộc chủ nghĩa con buôn và
bảo hộ để lần lượt tước đoạt hết việc làm
này đến việc làm khác từ những ngành công nghiệp
của Hoa Kỳ.
"Vũ
khí Hủy diệt Việc làm"
của Trung Quốc bao gồm trợ cấp xuất cảng bất
hợp pháp, giả mạo tràn lan những sở hữu trí tuệ
của Hoa Kỳ, bảo vệ môi trường lỏng lẻo một
cách tệ hại, và sử dụng đầy rẫy nhân công nô
lệ. Tuy nhiên, trọng tâm của chủ nghĩa con buôn
Trung Quốc là hệ thống tiền tệ được thao túng
một cách vô liêm sỉ đã gây khó khăn rất lớn cho
các nhà sản xuất Hoa Kỳ, kích thích quá đáng xuất
cảng của Trung Quốc đã tạo ra một trái bom nổ
chậm làm thâm hụt cán cân thương mại giữa Hoa Kỳ
- Trung Quốc gần một tỉ đô-la một ngày.
Trong
khi đó, bất cứ công ty Hoa Kỳ nào muốn vượt qua
"Vạn Lý Trường Thành Bảo hộ" của Trung
Quốc và bán hàng tại thị trường nước này cũng
phải nộp một khoản “tiền mãi lộ” bằng cách
không chỉ phải chuyển giao kỹ thuật cho đối tác
Trung Quốc. Các công ty Hoa Kỳ cũng phải chuyển các
cơ sở nghiên cứu và phát triển sang Trung quốc, và
vì vậy, xuất cảng "nguồn sữa mẹ" tạo
việc làm tương lai của Hoa Kỳ dâng cho địch thủ
cạnh tranh.
Cho
đến nay hàng triệu việc làm trong ngành sản xuất
của Hoa Kỳ đã bị mất đi vì cái trò hề thương
mại tự do của Trung Quốc, và chính công nhân Hoa Kỳ
cũng đã và đang là "loại" bị nguy cơ tuyệt
chủng. Hãy
xem xét những điều sau đây:
Từ
khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) vào năm 2001 và hứa cuội chấm dứt các
hành động theo chủ nghĩa con buôn và chủ nghĩa bảo
hộ, các ngành may mặc, dệt, và đồ gỗ của Hoa
Kỳ đã thu nhỏ lại chỉ còn một nửa - riêng việc
làm trong ngành dệt đã giảm 70%.
Những
ngành trọng yếu khác như hóa chất, giấy, thép và
vỏ bánh xe hơi cũng bị vây hãm, trong khi đó việc
làm trong ngành sản xuất máy điện toán và điện
tử kỹ thuật cao đã giảm hơn 40%.
Trong
khi chúng ta đã mất hết việc làm này đến việc
làm khác, nhiều người Mỹ vẫn lầm tưởng rằng
Trung Quốc chỉ sản xuất những sản phẩm rẻ tiền
và bình dân như giày dép và đồ chơi. Thực ra,
Trung Quốc đang tiến lên trong "chuỗi các mặt
hàng có giá trị" và việc chiếm lĩnh thị phần
của nhiều kỹ nghệ có lợi nhuận cao nhất còn
hoạt động của Hoa Kỳ - từ xe hơi và hàng không
vũ trụ đến thiết bị y tế tiên tiến.
Với
sự hỗ trợ mạnh mẽ của chính phủ, các công ty
Trung Quốc đang ráo riết chiếm lĩnh các thị trường
của cái gọi là kỹ nghệ "xanh" như xe hơi
điện, năng lượng mặt trời, và năng lượng gió.
Dĩ nhiên, đó chính là những kỹ nghệ các chính
khách Hoa Kỳ rất thích rêu rao như là các nguồn mới
tạo ra việc làm tốt nhất của Hoa Kỳ.
Chẳng
hạn, về mặt năng lượng gió, Trung Quốc hiện nay
dẫn đầu thế giới về mâu thuẫn trong chủ trương
vừa sản xuất vừa bảo hộ ngành công nghiệp
turbin gió. Đó là vì trong khi các công ty Trung Quốc
được chính phủ trợ cấp tràn ngập thị trường
thế giới những turbin thì các nhà sản xuất nước
ngoài như General Electric của Hoa Kỳ, Gamesa của Tây
Ban Nha, và Suzlon của Ấn Độ lại bị cấm đấu
thầu các dự án ở Trung Quốc do chính sách "Chỉ
mua hàng Trung Quốc".
Sự
nổi lên của Trung Quốc với vai trò không ai phủ
nhận được là "công xưởng" của thế giới
đưa tới một trong những hậu quả nghiêm trọng
nhất là sự tiêu thụ ngày càng gia tăng một cách
tham lam năng lượng và nguyên liệu của trái Đất.
Để nuôi bộ máy sản xuất của mình, Trung Quốc
phải tiêu thụ một nửa lượng xi-măng, gần một
nửa lượng thép, một phần ba đồng, và một phần
ba nhôm của thế giới. Hơn nữa, tới năm 2035, nhu
cầu dầu hỏa của chỉ riêng Trung Quốc sẽ vượt
tổng sản lượng dầu hỏa hiện nay của toàn thế
giới.
Đây
là thói phàm ăn chết người. Vì để hỗ trợ cho
thói phàm ăn này, các viên chức chính quyền Trung
Quốc đã leo lên chiếc chiếu thực dân đẫm máu
ngồi cùng các nhà độc tài sát nhân và các chế độ
tàn bạo khắp thế giới. Để làm điều đó, các
viên chức chính phủ và nhà ngoại giao Trung Quốc đã
lạm dụng một cách thô bỉ nhất chính sách ngoại
giao của Liên Hiệp Quốc (LHQ) mà thế giới chưa
từng thấy.
Là
thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ,
Trung Quốc có thể tùy nghi phủ quyết bất cứ biện
pháp chế tài nào của LHQ. Trong gần một thập niên
nay, những nhà ngoại giao cao cấp Trung Quốc đã dùng
quyền phủ quyết của Trung Quốc để mối lái một
loạt các giao dịch "đổi máu lấy dầu" và
"cưỡng đoạt lấy nguyên liệu". Dưới đây
là các sự kiện:
Để
đổi lấy dầu của Sudan, những con buôn có quyền
phủ quyết Trung Quốc đã ngăn LHQ can thiệp vào vụ
diệt chủng ở Darfur - lực lượng dân quân
Janjaweed tàn bạo lại còn sử dụng vũ khí Trung
Quốc để cưỡng hiếp hàng ngàn phụ nữ và giết
chết 300,000 người dân Sudan vô tội.
Những
con buôn có quyền phủ quyết Trung Quốc cũng ngăn
LHQ trừng phạt Iran và tổng thống bài Do Thái,
trúng cử nhờ gian lận, để được tiếp cận các
mỏ khí thiên nhiên lớn nhất thế giới. Hành vi
này đã mở toang cánh cửa cho việc phát tán vũ khí
hạt nhân ở Trung Đông. Nó cũng làm tăng cao khả
năng tấn công hạt nhân vào Israel và làm tăng đáng
kể nguy cơ vũ khí hạt nhân rơi vào tay các phần
tử thánh chiến chống Hoa Kỳ.
Việc
Trung Quốc lạm dụng sứ mạng gìn giữ hòa bình của
LHQ không phải là những sự kiện riêng lẻ. Thay vào
đó, chúng là một phần của chiến lược "tiến
ra ngoài", biến Trung Quốc từ một quốc gia từng
theo chủ nghĩa biệt lập thành một đế quốc thực
dân bành trướng lớn nhất thế giới. Đây là điều
mỉa mai không nhỏ cho một quốc gia ban đầu được
xây dựng trên những nguyên lý Mác-xít chống thực
dân và đã từng bị Đế quốc Anh dùng cuộc chiến
tranh thuốc phiện biến thành nạn nhân đau khổ ngay
trên đất họ.
Khắp
châu Phi, châu Á, và Mỹ Latin sân sau của Hoa Kỳ,
nhãn hiệu chủ nghĩa thực dân thế kỷ 21 của Trung
Quốc luôn bắt đầu với sự mặc cả hiểm độc
như sau: chi xài hậu hĩnh, cho vay lãi suất thấp để
xây dựng hạ tầng đổi lấy nguyên liệu và sự
xâm nhập thị trường nội địa.
Dĩ
nhiên, một khi đất nước đó nuốt phải miếng mồi
thực dân này, thay vì dùng nhân công địa phương,
Trung Quốc sẽ mang đến đội quân kỹ sư và công
nhân khổng lồ để xây xa lộ, đường rầy xe lửa,
hải cảng và hệ thống viễn thông mới. Hạ tầng
cơ sở này cả về nghĩa đen và nghĩa bóng lót đường
cho việc bòn rút và vận chuyển nguyên liệu. Và như
thế, gỗ của Cameroon, magnésium của Congo, thạch cao
của Djibouti, mangan của Gabon, uranium của Malawi, titan
của Mozambique, molybdenum của Niger, thiếc của Rwanda,
và bạc của Zambia được chở về các công xưởng
của Trung Quốc ở các thành phố như Trùng Khánh,
Đông Quan, và Thẩm Quyến. Sau đó, như phát súng ân
huệ cuối cùng của chủ nghĩa thực dân, Trung Quốc
đổ thành phẩm của họ vào thị trường nội địa
tại các nước này - và do đó triệt hạ các kỹ
nghệ địa phương, đẩy cao tỉ lệ thất nghiệp,
và nhận chìm các thuộc địa mới lún sâu hơn nữa
vào tình trạng bần cùng, đói nghèo.
Vũ
trang đến tận răng
Ngay
khi Trung Quốc bùng phát bằng cái giá mà tất cả
các nước còn lại trên thế giới phải trả, họ
cũng dùng sự phát triển kinh tế nhanh chóng của
mình tài trợ cho một trong những gia tăng quân sự
nhanh chóng và toàn diện nhất mà thế giới chưa
từng chứng kiến. Theo cách này, trong tinh thần
phương châm của Lê-nin là kẻ tư bản sẽ bán dây
thừng dùng để treo cổ chính hắn, mỗi "đô-la
Walmart" người Mỹ chúng ta hiện nay chi tiêu vào
những thứ nhập cảng rẻ tiền giả tạo của Trung
Quốc vừa là khoản ký quỹ cho tình trạng thất
nghiệp của chúng ta, vừa là khoản tài trợ bổ
sung cho một Trung Quốc vũ trang nhanh chóng. Dưới đây
là vài điểm mà bộ máy chiến tranh đó đang khoe
khoang:
Lực
lượng hải quân và không quân mới được hiện
đại hóa với tất cả mọi thứ từ tàu ngầm hạt
nhân gần như tàng hình và máy bay phản lực chiến
đấu dùng thiết kế mới nhất của Nga đến tên
lửa đạn đạo có thể nhắm chính xác các hàng
không mẫu hạm Hoa Kỳ ngoài biển khơi.
"Ngũ
Giác Đài" kiểu Trung Quốc phát triển các hệ
thống vũ khí tiên tiến một cách tự tin - trong đó
nhiều thứ do tin tặc và điệp viên đánh cắp của
chúng ta - để bắn hạ vệ tinh và hệ thống định
vị toàn cầu (GPS) của chúng ta và tấn công bằng
đầu đạn hạt nhân vào sâu trung tâm Hoa Kỳ.
Không
giống như quân đội Hoa Kỳ đã mệt mỏi lại còn
bị dàn mỏng do các cuộc xung đột ở Afghanistan và
Iraq, Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc - lớn
nhất thế giới - có cả số lượng vượt trội
lẫn khả năng sẵn sàng chiến đấu để áp đảo
các lực lượng của Ấn Độ, Đại Hàn, Đài Loan,
hay Việt Nam mà vẫn còn đủ bộ binh để nghiền
nát Taliban và giữ gìn hòa bình ở Baghdad, nếu họ
quan tâm.
Phe
"diều hâu" của quân đội Trung Quốc thậm
chí chuẩn bị khả năng ném bom hạt nhân từ vũ
trụ mà gần như không thể phát hiện được. Những
vũ khí hạt nhân vũ trụ này lặng lẽ và chớp
nhoáng phóng đến mục tiêu làm cho đối phương
không kịp chống trả.
Dĩ
nhiên, Hoa Kỳ không phải là quốc gia duy nhất nên e
ngại sự nổi lên của kẻ gây hấn châu Á mới và
hùng mạnh này. Những nước láng giềng ngày càng lo
âu giờ đây đối mặt với nguy cơ tăng nhanh từ
một kẻ bá quyền châu Á đang lên với chính sách
đe dọa chiến tranh và bắt nạt trong mọi vấn đề
từ tiếp cận các lộ trình thủy vận đến tranh
chấp lãnh thổ âm ỉ kéo dài.
Đại
ca diện kiến tiết Xuân thầm lặng (*)
Hàng
trăm triệu công dân Trung Quốc vô tội cũng đang lâm
nguy. Họ là những người phải đối mặt với nguy
cơ cực kỳ lớn "Chết dưới tay Trung Quốc ngay
tại Trung Quốc" nảy sinh từ mô hình tăng trưởng
kinh tế với ô nhiễm lan tràn, chế độ thần quyền
cứng nhắc dựa trên giai cấp của Đảng Cộng sản,
và một chủ nghĩa toàn trị cực đoan như George
Orwell mô tả trong tác phẩm "1984".
Về
mặt ô nhiễm, một nền kinh tế nặng về chế xuất
chú trọng quá mức vào xuất cảng đã biến bầu
khí quyển trên những trung tâm kỹ nghệ của Trung
Quốc thành đám mây che phủ độc hại lớn nhất
thế giới. Hơn 70% suối, sông, hồ chính của Trung
Quốc bị ô nhiễm trầm trọng. Thậm chí một chuyến
du lịch xuôi dòng sông Dương Tử, phía trên đập
Tam Hiệp, cho thấy kho báu quốc gia nguyên sơ trước
đây của Trung Quốc, nơi Mao đã từng bơi qua giờ
đây hầu như vắng bóng các loài chim và dấu hiệu
của các loài thủy sinh.
Trong
khi đó, "Những gì xảy ra ở Trung Quốc không ở
lại Trung Quốc". Trong khi các nhà máy Trung Quốc
tạo ra cơn lũ sản phẩm để chất lên kệ các cửa
hàng của Target và Walmart, thì các loại tro bụi ô
nhiễm không khí cực kỳ độc hại của Trung Quốc
cũng bay hơn 6,000 dặm theo các dòng khí đối lưu
tầng trên khí quyển đến California, thả các chất
thải độc hại xuống dọc đường đi. Ngày nay,
phần lớn mưa a-xit ở Nhật và Đại Hàn là "Made
in China", trong khi tỉ lệ ngày càng tăng các hạt
bụi mịn phát hiện trong không khí tại các thành
phố bờ biển phía Tây như Los Angeles cũng xuất phát
từ các nhà máy Trung Quốc.
Về
nguy cơ từ xã hội cứng nhắc, dựa trên giai cấp
của Trung Quốc, sự thật mỉa mai, cay đắng ở đây
là Đảng Cộng sản cầm quyền cai trị không phải
là một đảng "Cộng hòa Nhân dân" chân
chính mà là một chế độ thần quyền thế tục.
Trong khi Mác trở mình trong ngôi mộ và xác ướp Mao
từ chiếc hòm pha lê của mình hướng cặp mắt đờ
đẫn vào quảng trường Thiên An Môn, một tỷ lệ
nhỏ dân số Trung Quốc trở nên giàu có cực kỳ
cho dù cho một tỉ công dân Trung Quốc tiếp tục
sống đói nghèo trong một chế độ chuyên chế như
chủ trương của triết gia Thomas Hobbes, không được
chăm sóc y tế đầy đủ và chỉ một căn bệnh nhỏ
cũng thành án tử hình.
Nền
chính trị toàn trị của Trung Quốc cũng kinh hoàng
không kém. Để dập tắt bất đồng quan điểm, Đảng
Cộng sản dựa vào công an và lực lượng bán quân
sự trên một triệu người. Mạng lưới theo dõi
kiểu Orwell cũng có khoảng 50,000 công an mạng. Các
công an thực và ảo này không ngừng cùng nhau trấn
áp và đàn áp.
Thử
lập ra tổ chức nghiệp đoàn độc lập ở nơi làm
việc của mình, bạn sẽ bị đánh đập và đuổi
việc.
Đứng
lên vì quyền con người hay quyền phụ nữ, bạn sẽ
bị săn lùng tàn nhẫn, quản thúc trong nhà, hay đơn
thuần "biến dạng".
Bị
phát hiện là người theo Pháp Luân Công hay "người
theo Thiên chúa giáo một cách kín đáo", thì hãy
sẵn sàng để được tẩy não cho hết "tư
tưởng lệch lạc".
Cái
chốt khóa bắt mọi người vào khuôn phép của chính
sách trấn áp đó của Trung Quốc là quần đảo ngục
tù của các trại cưỡng bách lao động, nơi hàng
triệu công dân Trung Quốc bị lưu đầy - thường
không được xét xử. Bị giam ở trại tù Lao Cải
thì vẫn còn được coi là “may mắn”; theo Tổ
chức Ân xá Quốc tế, hàng năm nước Cộng hòa Nhân
dân này xử tử dân chúng của mình nhiều hơn mấy
lần các nước còn lại trên thế giới gom lại.
Ít
ra thì xử tử bằng tiêm thuốc độc giờ đây được
ưa chuộng hơn viên đạn bắn vào đầu như trước
vẫn làm. Tuy nhiên, đó không phải do lòng từ bi dẫn
đến "sự cải cách" hình thức tử hình
này. Đơn giản là vì tiêm thuốc độc dễ dọn hơn,
ít nguy cơ người thi hành án bị nhiểm HIV, và dễ
dàng hơn nhiều cho việc thu hoạch các bộ phận cơ
thể của nạn nhân để bán ra chợ đen.
Phản
bội nghiêm trọng nhưng tránh né còn nghiêm trọng
hơn
Ngay
cả khi vô số cái Chết dưới tay Trung Quốc diễn
ra cả bên trong nước Cộng hòa Nhân dân này và ở
những xưởng máy chết chóc trên khắp thế giới,
các nhà lãnh đạo thương nghiệp, nhà báo, và nhà
chính trị Hoa Kỳ có quá ít điều để nói về nguy
cơ lớn nhất duy nhất đối mặt với Hoa Kỳ và thế
giới.
Trong
phạm vi lãnh đạo cao cấp, một số công ty lớn
nhất của Hoa Kỳ - từ Caterpillar và Cisco đến
General Motors và Microsoft - đã hoàn toàn đồng lõa
với chính sách "chia rẽ" Hoa Kỳ "để
trị" của Trung Quốc. Bi kịch ở đây là khi chủ
nghĩa con buôn Trung Quốc bắt đầu tấn kỹ nghệ
Hoa Kỳ vào cuối những năm 1990 - những kỹ nghệ
như tủ giường bàn ghế, dệt và may mặc bắt đầu
sụp đổ hết ngành này đến ngành khác - cộng đồng
và các cơ quan thương mại như Phòng Thương mại Hoa
Kỳ đã gắn bó với nhau.
Tuy
nhiên, trong thập niên qua, khi mỗi việc làm của Hoa
Kỳ và mỗi nhà máy mới của Hoa Kỳ chuyển sang
Trung Quốc, vì mối quan tâm thiển cận nhằm tối đa
hóa lợi nhuận, nhiều lãnh đạo công ty Hoa Kỳ đã
điều chỉnh theo đối tác Trung Quốc. Thật vậy,
khi bánh mì của họ được phết bơ ở nước ngoài,
các tổ chức được gọi là 'Hoa Kỳ" như Thảo
luận Kinh doanh Bàn tròn và Hiệp hội các Nhà Sản
xuất Quốc gia đã chuyển biến từ phê phán gay gắt
chủ nghĩa con buôn Trung Quốc thành những chiến sĩ
cởi mở, và thường rất xông xáo trong những cuộc
vận động hành lang ủng hộ Trung Quốc.
Trong
khi nhiều Tổng giám đốc Điều hành công ty Hoa Kỳ
trở thành những chiến sĩ vận động hành lang cho
Trung Quốc, các nhà báo Hoa Kỳ phần lớn đã mất
tích trong khi thi hành nhiệm vụ. Sự cắt giảm nhân
sự của các tờ báo và hệ thống tin tức truyền
hình trong thời đại Internet dẫn đến việc đóng
cửa hay thu hẹp nhiều văn phòng tin tức ở nước
ngoài. Kết quả là các cơ quan truyền thông Hoa Kỳ
đã phải ngày càng dựa vào nguồn tin từ báo chí
của chính quyền Trung Quốc - một trong những bộ
máy tuyên truyền không khoan nhượng và hiệu quả
nhất mà thế giới từng chứng kiến.
Trong
khi đó, tinh hoa của báo chí tài chính Hoa Kỳ - đáng
chú ý nhất là tờ Wall Street Journal - bám chặt trung
với tư tưởng thị trường tự do và thương mại
tự do, dường như không biết đến một thực tế
là "thương mại tự do một chiều" của
Trung Quốc hoàn toàn là sự đầu hàng đơn phương
của Hoa Kỳ trong thời đại chủ nghĩa tư bản quốc
doanh của Trung Quốc. Điều nghịch lý ở đây là
thay vì xem cải cách thương mại là một hình thức
tự vệ chính đáng chống lại sự công kích không
thương tiếc của hành động "lợi mình, hại
người" của Trung Quốc, báo chí như tờ Wall
Street Journal lại liên tục xỉ vả nguy cơ "chủ
nghĩa bảo hộ" của Hoa Kỳ. Tất cả đều quá
vô nghĩa, nhưng tiếng trống ý thức hệ vẫn tiếp
tục vang lên.
Không
một nhóm cá nhân riêng lẻ nào xứng đáng bị lên
án hơn các chính trị gia Hoa Kỳ vì tội đã nhu
nhược, thụ động, và dốt nát khi để Trung Quốc
mặc sức lũng đoạn nền tảng sản xuất Hoa Kỳ và
tiến hành tăng cường quân sự trên qui mô lớn.
Không phải vì Quốc hội Hoa Kỳ đã không được
cảnh báo đầy đủ về những hiểm nguy của một
Trung Quốc đang nổi lên. Mỗi năm Ủy ban Hoa Kỳ -
Trung Quốc, được Quốc hội cung cấp ngân khoản,
vẫn xuất bản phúc trình hàng năm và nhiều tài
liệu về mối nguy cơ đang nổi lên này.
Chẳng
hạn, Ủy ban Hoa Kỳ - Trung Quốc đã cảnh báo "hoạt
động gián điệp của Trung Quốc tại Hoa Kỳ rộng
đến nỗi chúng trở thành nguy cơ lớn nhất duy nhất
về an ninh về khoa học kỹ thuật của Hoa Kỳ".
Thực tế, đến nay, mạng lưới gián điệp rộng
lớn của Trung Quốc đã đánh cắp những bí mật
trọng yếu liên quan đến tàu khu trục mang tên lửa
dẫn đường hệ Aegis, máy bay ném bom B1-B, hỏa tiễn
Delta IV, hệ thống dẫn đường cho tên lửa đạn
đạo ICBM, máy bay ném bom tàng hình Stealth, và phi
thuyền Con Thoi. Tin tặc và điệp viên Trung Quốc có
hiệu quả như nhau trong việc cung cấp chi tiết hệ
thống phóng máy bay của hàng không mẫu hạm, máy
bay không người lái drone, thiết kế lò phản ứng
tàu thủy, hệ thống động cơ đẩy của tàu ngầm,
cơ chế hoạt động bên trong bom neutron, và thậm chí
quy trình hoạt động rất chi tiết của tàu chiến
hải quân Hoa Kỳ.
Tương
tự, về nguy cơ kinh tế, Ủy ban đã yêu cầu Quốc
hội thừa nhận rằng các thương nghiệp vừa và nhỏ
của Hoa Kỳ "đương đầu với toàn bộ sức
mạnh của các thủ đoạn thương mại bất công,
thao túng tiền tệ, và trợ cấp bất hợp pháp của
Trung Quốc cho các hoạt động xuất cảng của họ".
Bất chấp những cảnh báo này, Quốc hội tiếp tục
đã làm ngơ những khuyến cáo của ủy ban độc lập
của chính Quốc hội và từ chối thức tỉnh trước
nguy cơ kinh tế và quân sự ngày càng tăng từ phía
Trung Quốc.
Dĩ
nhiên, Tòa Bạch Ốc phải chịu trách nhiệm tương
tự. Cả hai tổng thống George W. Bush và Barack Obama
đã nói chuyện nhẹ nhàng và mang gậy rất nhỏ khi
đến Trung Quốc. Lý do của tổng thống Bush là sự
lưu tâm đến cuộc chiến ở Iraq và an ninh nội địa
kèm với niềm tin mù quáng vào đủ mọi thứ, trừ
thị trường tự do. Chỉ trong nhiệm kỳ của Bush,
Hoa Kỳ đã từ bỏ hàng triệu việc làm cho Trung
Quốc.
Về
phần mình, Ứng cử viên Obama trong chiến dịch vận
động bầu cử vào năm 2008 đã hứa hẹn nhiều lần
kiên quyết chấm dứt hoạt động thương mại bất
công của Trung Quốc, nhất là tại các tiểu bang
công nghiệp chủ yếu như Illinois, Michigan, Ohio, và
Pennsylvania. Thế nhưng, từ khi nhậm chức, Tổng
thống Obama đã nhiều lần cúi đầu trước Trung
Quốc về những vấn đề thương mại then chốt, chủ
yếu vì ông muốn Trung Quốc tiếp tục tài trợ cho
thâm hụt ngân sách khổng lồ của Hoa Kỳ. Trong khi
Obama thế chấp tương lai của chúng ta cho các ngân
hàng Trung Quốc, ông ta không hiểu được rằng
chương trình tạo việc làm tốt nhất cho nước Hoa
Kỳ là cải cách thương mại toàn diện với Trung
Quốc.
Lộ
trình phía trước: Mọi con đường đều đổ dồn
đến Bắc Kinh
Trong
quyển sách này, chúng tôi sẽ trình bày một cách hệ
thống các dạng Chết dưới tay Trung Quốc chính - từ
những thành tích kinh hoàng về an toàn sản phẩm và
sự hủy diệt nền kinh tế Hoa Kỳ đến sự nổi
dậy của chủ nghĩa thực dân Trung Quốc, sự tăng
cường sức mạnh quân sự nhanh chóng, và các hoạt
động gián điệp táo bạo và trắng trợn của Trung
Quốc.
Khi
làm điều đó, mục tiêu tổng quát của chúng tôi
không chỉ cung cấp cho độc giả một sự thật rành
mạch và danh mục những sự lạm dụng của Trung
Quốc. Cuốn sách này cũng được dùng như một tài
liệu hướng dẫn sống còn và kêu gọi hành động
tại một thời khắc quan trọng trong lịch sử Hoa Kỳ
và thế giới. Trừ khi tất cả chúng ta cùng nhau
đứng lên đương đầu với con Rồng này, phần còn
lại của cuộc đời chúng ta và cuộc sống của con
cháu chúng ta sẽ kém thịnh vượng hơn nhiều - và
lại nguy hiểm hơn nhiều - so với Thời đại Vàng
son mà nhiều người trong chúng ta đã lớn lên.
(*)
Silent Spring - tác phẩm nổi tiếng của Rachel Carson
xuất bản lần đầu năm 1962, viết về sự hủy
diệt môi trường của hóa chất, làm cho mùa Xuân
trở nên yên lặng vì không có tiếng chim muông thánh
thót, tiếng vạn vật rộn rã. Tựa đề "Big
Brother Meets Silent Spring" tác giả ám chỉ đại
ca Trung Quốc giờ đây cũng phải đối diện mùa
Xuân thầm lặng của sự chết chóc.
Chương
2
Chết
vì chất độc của Trung Quốc:
Mạng
sống vài đồng và thịt gà thì miễn phí |
|
Ở
Trung Quốc, thức ăn Trung Quốc được gọi là gì?
Là “Thức ăn”! -
Jay Leno
Trong
khi câu đùa này nghe thú vị, thì cụm từ “thực
phẩm Trung Hoa” lại hàm nghĩa nghiêm trọng hơn
nhiều khi mà Trung Quốc đang cung cấp cho Hoa Kỳ ngày
càng nhiều trái cây, rau quả, cá và thịt, không kể
các loại vitamin và thuốc chữa bệnh.
Trung
Quốc là nước xuất cảng hải sản lớn nhất sang
Hoa Kỳ, là nguồn cung cấp chính về gà thịt trắng
và là nước xuất cảng trà lớn thứ ba trên thế
giới. Các nhà nông Trung Quốc cũng cung cấp cho chúng
ta 60% nước táo ép, 50% tỏi, và một số lượng lớn
đủ các loại từ trái lê đóng hộp, nấm bảo quản
đến mật ong và sữa ong chúa.
Về
dược phẩm, Trung Quốc cũng sản xuất cho thế giới
đến 70% lượng penicillin, 50% lượng aspirin, và 33%
lượng tylenol. Các công ty dược phẩm Trung Quốc
cũng đã chiếm lĩnh phần lớn thị trường thế
giới về kháng sinh, enzyme, các acid amin chính và
vitamin tổng hợp. Trung Quốc thậm chí đã thống
lĩnh đến 90% thị trường thế giới về vitamin C -
cùng lúc đó họ đang có vai trò áp đảo trong việc
sản xuất các loại vitamin A, B12, và E, không kể
nhiều loại nguyên liệu để sản xuất vitamin tổng
hợp.
Các số liệu thống kê này làm tất cả
chúng ta lo lắng chỉ vì một lý do đơn giản: Một
phần quá lớn các loại thuốc Trung Quốc đang tràn
ngập các cửa hàng và siêu thị thuốc của chúng ta
thực sự là chất độc. Đấy là lý do tại sao thực
phẩm và dược phẩm Trung Quốc luôn được xếp
hàng đầu trong các loại phải kiểm tra khi nhập vào
biên giới hoặc bị trả về bởi cả cơ quan Quản
lý Thực phẩm & Dược phẩm của Hoa Kỳ lẫn Cơ
quan An toàn Thực phẩm châu Âu.
Thế sao Trung
Quốc vẫn tiếp tục mang đến cho chúng ta các loại
thực phẩm và thuốc có thể làm chúng ta đau ốm
hoặc giết chúng ta như vậy? Đôi khi các chất độc
có trong dây chuyền cung cấp thực phẩm và thuốc
men là hậu quả ngẫu nhiên của những yếu tố như
phương pháp sản xuất kém chất lượng, quy trình
kém vệ sinh, hoặc là chất độc từ đất do môi
trường bị ô nhiễm. Những khi khác thì do những kẻ
thiếu đạo đức hay còn gọi là “kẻ dã tâm”-
một từ do chính người dân của họ gọi - cố tình
làm nhiễm bẩn thực phẩm và dược phẩm, đơn giản
chỉ vì muốn gia tăng lợi nhuận cho họ.
Cho
dù là do ngẫu nhiên hay cố tình, việc đầu tiên
bạn cần biết cụ thể về cái Chết dưới tay
Trung Quốc này là nó không nhắm vào một người
nào. Thật vậy, người Trung Quốc, dù là nông dân,
ngư dân, nhà chế biến thực phẩm hay là người bán
thuốc, đều có thể đầu độc chính người dân
của họ y như họ đầu độc người Mỹ, người
châu Âu, người Nhật, người Hàn và tất cả những
ai trên toàn thế giới dùng thực phẩm và dược
phẩm của họ. Để thử xem câu nói trên đúng tới
đâu chỉ cần xem trả lời cho câu hỏi : “Cái gì
trong chảo của anh thế?”: Có tới 10% nhà hàng ở
Trung Quốc sử dụng cái gọi là “dầu ăn bẩn"
để nấu nướng.
Dầu ăn bẩn là một hỗn
hợp hôi hám của dầu đã được sử dụng và chất
thải thu được từ hố ga và cống rãnh từ các nhà
bếp thương mại, chứa đầy nấm mốc độc
aflatoxin gây ung thư gan. Những người vô gia cư(*) ở
Trung Quốc lén lút bán thứ này cho nhiều nhà hàng
với giá chỉ bằng một phần năm giá dầu đậu
nành hay dầu lạc mới. Ngoài khả năng gây ung thư,
cái hỗn hợp gồm dầu bị mốc với đủ loại thực
phẩm bỏ đi này có thể là bản án tử hình bất
ngờ cho bất kỳ ai bị dị ứng thực phẩm nặng.
Kẻ
giết người hàng loạt bằng Melamine Trung Quốc
Câu
chuyện dầu ăn bẩn này cho dù có thể làm chúng ta
phẫn nộ, nhưng so với chuyện những kẻ giết người
hàng loạt bằng melamine Trung Quốc thì nó chưa là gì
cả. Những kẻ sát nhân này đã hạ sát nhiều nạn
nhân trên đất Trung Quốc cũng như trên khắp thế
giới, và những nỗ lực thường là vô hiệu quả
để bắt chúng cho thấy một cách rõ ràng sự khó
khăn cho cả chính phủ Trung Quốc lẫn các cơ quan
kiểm soát Hoa Kỳ trong việc bảo đảm an toàn thực
phẩm và thuốc men khi mà bọn sát nhân hoạt động
chỉ vì lợi nhuận.
Vũ
khí giết người, melamine, thực ra là một hóa chất
có giá trị khi chúng không bị lén lút cho vào thực
phẩm. Kết hợp melamine với formaldehyde để sản
xuất nhựa melamine, bạn sẽ có được một chất
dẻo có độ bền cao dùng sản xuất các sản phẩm
như formica và các bảng viết bằng bút xóa. Trộn
với một số hóa chất khác, bạn có thể dùng
melamine như một chất chống cháy, phân bón, hay là
“phụ gia" siêu dẻo dùng trong bê tông cường
độ cao. Thế nhưng thêm melamine vào các sản phẩm
như thức ăn gia súc, sữa, hoặc sữa cho trẻ sơ
sinh thì không còn cách nào nhanh hơn để hủy hoại
hai trái thận của con người.
Thế
tại sao những thương gia có dã tâm của Trung Quốc
lại thêm melamine vào thực phẩm của chúng ta? Đó
là vì hàm lượng nitrogen cao trong melamine có thể
nhái mức protein cao trong thực phẩm. Sự giả mạo
protein kiểu Trung Quốc này do đó có thể đánh lừa
các nhân viên kiểm tra thực phẩm trong việc xếp
hạng thực phẩm có hàm lượng protein cao. Vì
melamine rất rẻ so với protein thật, nên điều này
có nghĩa là rất nhiều tiền sẽ vào túi thủ phạm,
bất kể nhiều người có thể thiệt mạng.
Ai
giết con mèo của tôi? Cái gì đã xảy ra với chó
của tôi?
Thế
giới lần đầu biết đến việc giả mạo protein
của Trung Quốc vào năm 2007, khi hàng chục ngàn chó
và mèo ở châu Âu, Hoa Kỳ và Nam Phi bị chết vì
loạt thức ăn nhiễm melamine. Và không chỉ thú vật
nuôi bị ảnh hưởng. Theo Cơ quan Quản lý Thực phẩm
và Dược phẩm cùng Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, ba triệu
người Mỹ đã tiêu thụ thịt gà và thịt heo nuôi
bằng thức ăn có chứa melamine.
Và
giờ bạn hãy nghe đây: Nếu bạn bị mất con vật
nuôi đang khỏe mạnh vì một chứng bệnh bí ẩn hay
do hỏng thận, có lẽ là chúng bị chết do ”Chất
độc Trung Quốc”. Có thể biết trước được rằng
khi sự khủng hoảng nổ ra, chính phủ Trung Quốc đã
tìm cách ngăn chặn và thậm chí từ chối cho phép
các thanh tra nước ngoài đến để xem xét vấn đề.
Tuy nhiên, khi sự kiện melamine nổ ra trên chính đất
nước Trung Quốc thì lại là một chuyện khác.
Không
nhắm vào riêng ai cả, Phần hai
“Tôi
đã hoàn toàn mất niềm tin vào sữa bột do Trung
Quốc sản xuất”, Emily Tang, một công chức 31 tuổi
ở thành phố Thẩm Quyến có cô con gái 3 tuổi
nói. — Bloomberg
Business Week
Năm
2008, gần 300,000 trẻ sơ sinh Trung Quốc bị ốm và 6
trẻ em đã chết sau khi 22 nhà máy sữa ở Trung Quốc
bị nghi ngờ là đã cho thêm melamine vào sữa và sữa
dành riêng cho trẻ sơ sinh. Theo Triệu Huệ Bình (Zhao
Huibin), một nông dân nuôi bò sữa ở tỉnh Hồ Bắc:
"Trước khi sử dụng melamine, người ta đã dùng
cháo gạo và tinh bột khoai để cố ý làm tăng số
đo hàm lượng đạm, nhưng cách này rất dễ bị
phát hiện, nên họ chuyển sang dùng melamine”.
Trong
trường hợp cụ thể này, những kẻ giả mạo đầy
dã tâm còn không thèm dùng loại melamine tinh khiết
công nghiệp. Thay vào đấy, chúng dùng loại rẻ tiền
hơn - và độc hại hơn - “melamine phế thải”.
Không ngạc nhiên khi nhiều trẻ em dù khỏi bệnh vì
nhiễm độc melamine đã bị tổn thương thận nghiêm
trọng. Điều làm người ta rùng mình là sự việc
xảy ra chỉ một năm sau khi Thủ tướng Ôn Gia Bảo
đã quyết định chi thêm 1.1 tỷ đô-la và cử hàng
trăm ngàn thanh tra đi kiểm tra các cơ sở sản xuất
thực phẩm và dược phẩm.
Tờ New
York Times
đã có bài nói về sự thất bại triền miên trong
quản lý này như sau:Sự
kiện liên quan đến các nhà máy sữa làm dấy lên
một câu hỏi cốt lõi là liệu Đảng Cộng sản
đang cầm quyền có khả năng tạo ra một cơ cấu
điều hành có trách nhiệm và minh bạch trong hệ
thống độc đảng hay không.
Ta
hãy xem câu chuyện hài nhỏ có thể trả lời câu
hỏi ấy đồng thời nhấn mạnh sự khác biệt căn
bản giữa các chế độ xã hội mở và tự do với
chế độ toàn trị tàn bạo ở Trung Quốc. Năm 2010,
nguyên nhà báo Triệu Liên Hải (Zhao Lianhai) bị tù
sau một phiên tòa vờ vịt trong đó anh không được
phép đưa ra bằng chứng.
“Tội”
của Triệu không phải là đầu độc mọi người.
Đúng hơn là anh bị kết tội ”gây rối trật tự
xã hội” vì đã cố đưa ra ánh sáng những kẻ
giết người bằng melamine sau khi con anh bị mắc
bệnh. Và đấy cũng lại thêm một lý do nữa vì sao
Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc sẽ không bao giờ có
thể bảo đảm cho chúng ta các sản phẩm an toàn hơn
được. Không như ở các nước dân chủ, nơi quyền
tự do ngôn luận và tự do hội họp là bất khả
xâm phạm để giúp soi rọi mọi hành vi sai trái,
Trung Quốc dấu nhẹm mọi thứ - và cho tất cả
những người phản kháng vào trại tù cưỡng bách
lao động (kiểu gulags của Sô Viết).
Những
chất độc giết người có tên heparin của Trung Quốc
Bây
giờ, nếu bạn nghĩ rằng sự kiện melamine là xưa
rồi, thì không phải vậy đâu! Cho đến tận bây
giờ, các sản phẩm nhiễm độc melamine vẫn ngày
càng nhiều vì nó thực sự đem lại lợi ích quá
lớn khi được dùng làm chất phụ gia, cho dù nó tàn
phá thận của con người.
Còn như bạn nghĩ
rằng thủ đoạn kiếm lợi nhuận bằng việc sử
dụng những chất nhiễm độc như melamine chỉ có
trong thực phẩm, thì cũng không phải chỉ thế thôi
đâu. Chất độc giết người trong heparin của Trung
Quốc minh họa một cách sinh động việc bọn con
buôn bất lương Trung Quốc cũng đang bận rộn làm
nhiễm độc cả thuốc chữa bệnh cho chúng ta.
Heparin là một loại thuốc chống đông máu dùng
trong phẫu thuật tim, truyền máu, chữa tĩnh mạch
cho đến lọc thận. Nó được làm từ một sản
phẩm tầm thường là niêm mạc ruột heo. Chính vì
vậy mà Trung Quốc tham gia vào hoạt động sản xuất
heparin: là nước sản xuất thịt heo lớn nhất thế
giới, Trung Quốc luôn có nguồn cung cấp ruột heo
hầu như vô tận.
Để
giảm chi phí và gia tăng lợi nhuận, các nhà sản
xuất Trung Quốc đã bí mật thêm một chất tương
tự như heparin, nhưng rẻ tiền và có thể gây chết
người gọi là chondroitin sulfate với hàm lượng
sulfate vượt mức. Chất độc này có thể gây ra
những phản ứng nghiêm trọng, đôi khi gây chết
người - từ hạ huyết áp và thở gấp đến ói mửa
và tiêu chảy.
Và
đây là điều bẩn thỉu của trò lừa đảo này:
Chất gây độc cho heparin có cấu trúc hóa học rất
gần với heparin thật đến nỗi rất khó bị phát
hiện. Giá của nó rẻ hơn heparin thật 100 lần: 9
đô-la so với 900 đô-la mỗi pound! Vì giá cực thấp
như thế, một số lô heparin bị nhiễm độc đã có
tới 50% là heparin giả!
Không
đâu xa, hãy xem trường hợp cụ thể của anh Leroy
Hubley ở Toledo, Ohio về cái chết bởi chất độc
Trung Quốc. Anh đã mất người vợ 48 tuổi vì nhiễm
chất heparin giả. Chỉ một tháng sau đấy và trước
khi phát hiện ra chất độc, con trai của Hubley, cùng
bị bệnh kém chức năng thận như mẹ cháu đã trở
thành nạn nhân của cùng trò giá rẻ bất lương của
bọn Trung Quốc.
Đến nay, chất độc heparin
của Trung Quốc đã giết hại hàng trăm người Mỹ
và làm hàng ngàn người khác bị bệnh. Heparin kém
chất lượng đã xuất hiện ở 11 nước khác như
Nhật Bản, Đức, Ấn Độ và Canada. Mặc dù nhà
chức trách của cả Hoa Kỳ và Trung Quốc đã nỗ
lực kiểm soát, cho đến nay heparin kém chất lượng
vẫn có mặt ở các phòng mổ và các trung tâm lọc
thận.
Bây
giờ, chúng ta hãy tự hỏi: Vì sao mà nhiều kẻ dã
tâm Trung Quốc lại sẵn sàng đầu độc thức ăn và
thuốc men chỉ vì lợi nhuận? Câu trả lời của một
học giả nổi tiếng Trung Quốc đã chỉ ra một cách
sâu sắc đối với vấn đề suy thoái đạo đức
của tâm hồn Trung Quốc. Theo giáo sư kinh doanh Lưu
Hải Đồng (Luo Yadong) trong Tạp chí Quản lý và Tổ
chức, vấn đề suy thoái đạo đức - và việc chạy
theo lợi nhuận bằng mọi giá - đã xảy ra do sự đổ
vỡ các nguyên lý Khổng giáo trong môi trường không
có đạo đức và luân thường đạo lý của chủ
nghĩa cộng sản Trung Quốc.
Chính vì sự suy
thoái đạo đức đó, cùng với việc các viên chức
chính quyền tham nhũng và luật pháp lỏng lẻo, đã
thúc đẩy những người chế biến thực phẩm cố ý
sử dụng hóa chất công nghiệp độc hại để cải
thiện vị ngon và bảo quản thực phẩm.
Thực
vậy, chính các nhà chức trách Trung Quốc cũng đã
tìm thấy những điều quái gở như nồi lẩu có
thêm formaldehyde để có vị ngon hay nước tương có
pha thêm acid hydrochloric và tóc người để làm tăng
độ đạm. Nhưng kẻ dã tâm Trung Quốc còn làm xúc
xích giá rẻ “tươi ngon” bằng cách cho cả thuốc
trừ sâu cực độc dichlorvos vào. Lần sau, mỗi khi
định ăn cái gì ngon ngon mà “Made in China”, bạn
hãy nhớ những tiểu xảo đó nhé!
Đôi
khi đấy không phải là chủ ý giết người - chỉ
là ngộ sát!
Bây
giờ tôi nghĩ là đã rõ mọi vấn đề, nếu Trung
Quốc muốn sống trong thế kỷ 21 này, thì họ phải
sản xuất theo những tiêu chuẩn như vậy. —Thượng
Nghị sĩ Richard Durbin (Đảng Dân chủ - Tiểu bang
Illinois)
Trong
khi “tội giết người cấp một" là bản án
trong những vụ án melamine hay heparin thì trong nhiều
vụ khác đấy chỉ là "tội ngộ sát" - tức
tội giết người không có "chủ đích trước".
Vấn đề chủ yếu ở đây là khi Trung Quốc đã trở
thành công xưởng sản xuất của thế giới, thì họ
cũng đồng thời trở thành bãi chứa chất thải
nguy hại và là đất nước ô nhiễm nhất thế giới.
Bãi rác cực lớn ấy giờ đây có nghĩa là mảnh
đất Trung Quốc dùng để nuôi dưỡng thế giới
chứa đầy những chất gây ung thư, kim loại nặng,
thuốc trừ sâu bất hợp pháp và những chất độc
hại khác. Có nghĩa rằng việc chất độc từ mảnh
đất Trung Quốc đang ngấm vào bữa ăn của người
Mỹ, người châu Âu, người Nhật, người Hàn phải
trở nên hiển nhiên đối với bất kỳ ai quan tâm.
Ăn
một quả táo Trung Quốc mỗi ngày đủ cho các bác
sĩ chuyên khoa ung thư của Hoa Kỳ có việc làm cả
đời
Hãy
xem một ví dụ. Hộp nước ép ngon và đẹp mắt bạn
dùng trong bữa trưa của con bạn. Thế là đã có một
cơ hội để bạn, thay vì đưa một lon nước có
gas, đã cho con bạn uống một thứ có vẻ là "tốt
cho sức khỏe" chứa đầy arsen, một thứ kim
loại nặng có thể gây ung thư. Đây là lý do tại
sao:
Hơn
30 năm qua, các nhà nhập cảng nước táo đặc Trung
Quốc đã tăng từ 10,000 gallon lên đến gần nửa tỷ
gallon mỗi năm; và ngày nay Trung Quốc chiếm lĩnh hơn
một nửa thị trường Hoa Kỳ.
Điều
chắc chắn là, giá của họ rẻ hơn giá của các
nhà nông Hoa Kỳ. Nhưng có một lý do làm cho nó rẻ
là vì các vườn cây Trung Quốc dùng rất nhiều các
loại thuốc trừ sâu bất hợp pháp có chứa arsen để
rồi thấm vào cây và cô đọng trong quả.
Bạn
muốn tách trà "loại thường" hay "không
chì"?
Có
một câu nói: "mọi thứ trà đều là trà Tàu
cả". Đúng thế, dù rằng khó tin! Một vị
nguyên là Phó giám đốc Cơ quan Quản lý Thực phẩm
và Dược phẩm Hoa Kỳ đã mô tả trên Đài phát
thanh Quốc gia phương pháp mà người Trung Quốc đã
sử dụng để phơi khô lá trà như sau: Người sản
xuất rải "lá trà trên một cái sân kho rất
rộng rồi dùng xe tải cán lên cho chóng khô". Vì
xe Trung Quốc dùng xăng pha chì nên không có cách nào
hiệu quả hơn thế để biến lá trà thơm ngon trở
thành một thứ vũ khí giết người.
Chẳng
có tí sự thật nào trong nhãn hiệu thực phẩm Trung
Quốc cả!
Ngoài
ra, một trong những thói quen lừa đảo của những
kẻ dã tâm Trung Quốc là thường xuyên ghi sai nhãn
cho các thực phẩm "hữu cơ". Không ngạc
nhiên là các nhà nông Trung Quốc luôn nóng lòng muốn
nhảy vào thị trường thực phẩm hữu cơ Hoa Kỳ,
nhưng sự thú nhận của một chủ cửa hàng Trung
Quốc đã nói lên tất cả:
Có
khoảng chừng 30% các nông trại sản xuất thực phẩm
hữu cơ thật và họ ghi nhãn hữu cơ trên đó. Tôi
nghĩ chính quyền cần cải tiến công tác kiểm
nghiệm. Nhưng giờ họ quá bận với an toàn thực
phẩm nên chả còn sức đâu mà lo cho thực phẩm hữu
cơ nữa.
Với
sự thú nhận này thì không có gì đáng ngạc nhiên
khi Walmart, Whole Foods, và các nhà bán lẻ khác phát
hiện các sản phẩm tưởng là "hữu cơ" của
Trung Quốc nhiễm đầy thuốc trừ sâu.
Bệnh
nôn mửa vì đậu xanh tại Nhật
Không
phải chỉ có Hoa Kỳ mới ăn phải chất độc Trung
Quốc. Hãy xem điều gì xảy ra với một nhà phân
phối thực phẩm Nhật Bản nhập cảng trên 50,000
kiện đậu xanh Trung Quốc được cho là “tươi
ngon” từ Công ty Thực phẩm Yên Đài Bắc Hải của
tỉnh Sơn Đông. Sau khi những người tiêu dùng bị
nôn mửa rồi bị tê miệng, các viên chức của Bộ
Y tế Nhật Bản đã tìm thấy nồng độ thuốc trừ
sâu độc hại có trong đậu xanh cao gấp gần 35,000
lần nồng độ cho phép!
Dĩ
nhiên, chúng ta có thể ghi lại hết chuyện này sang
chuyện khác về “cái chết bởi thuốc độc Trung
Quốc”. Chẳng hạn như vụ ở châu Âu liên quan đến
Vitamin A nhiễm vi trùng suýt nữa thì được dùng pha
chế sữa dành cho trẻ sơ sinh. Người ta đã tìm
thấy các viên vitamin tổng hợp lẫn tạp chất chì,
mật ong, tôm nhiễm thuốc kháng sinh. Vụ việc tai
tiếng đã đăng tải ầm ĩ về loại xi-rô thuốc ho
rẻ tiền chứa chất chống đông đã giết hại hàng
ngàn người trên thế giới. Những ví dụ như thế
này chỉ có ích nếu chúng giúp ta hiểu ra những vấn
đề to lớn hơn.
Vấn
đề to lớn cuối cùng chúng tôi muốn minh họa bằng
ví dụ sau đây về ngành nuôi cá ở Trung Quốc:
trong bối cảnh các vấn đề môi trường liên quan
đến thực phẩm và dược phẩm Trung Quốc vẫn đang
hiện diện cùng với hành vi thiếu đạo đức của
các thương gia Trung Quốc hoành hành ở khắp nơi,
thì việc Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm
Hoa Kỳ, Cơ quan Quản lý An toàn và Thực phẩm châu
Âu cũng như Ủy ban An toàn Thực phẩm Nhật Bản
kiểm soát được các sản phẩm nhập cảng từ
Trung Quốc hầu như là bất khả thi. Thực vậy, việc
các nhà nuôi trồng thủy sản Trung Quốc đã đè bẹp
các đối thủ cũng như các nhà chức trách về an
toàn thực phẩm chỉ là một mô hình thu nhỏ các
sai lầm của việc phụ thuộc vào thực phẩm - và
cá - Trung Quốc!
Không
chỉ có người Trung Quốc sống trong điều kiện
chen chúc Các
dòng nước của chúng tôi ở đây quá bẩn. Đơn
giản là vì có quá nhiều cơ sở nuôi trồng thủy
sản trong vùng này. Tất cả họ đều xả nước bẩn
ra đây, làm ô nhiễm các trang trại khác. —
Triệu Diệp (Ye Chao) nông dân nuôi lươn và tôm ở
Phúc Thanh, Trung Quốc.
“Câu
chuyện thủy sản” Trung Quốc không may lại hoàn
toàn là sự thật này bắt đầu ở miền Đông Nam
Hoa Kỳ, nơi mà trong những năm 90 việc nuôi cá tra
miền Nam là một trong những câu chuyện thành công
lớn của ngành thủy sản Hoa Kỳ. Thế rồi con rồng
châu Á bước vào đấu trường "Long tranh Hổ
đấu".
Như
chúng ta sẽ thảo luận kỹ hơn trong Phần II, "Những
Vũ khí Hủy diệt Việc làm”, các thương nghiệp
Trung Quốc kiếm lợi nhuận bằng mọi trò lừa đảo
trong kinh doanh, và các trại nuôi thủy sản của
Trung Quốc không phải là ngoại lệ. Thật vậy, bắt
đầu vào những năm đầu của thế kỷ 21, dưới sự
tấn công dữ dội của ngành xuất cảng được trợ
cấp của Trung Quốc, nhiều trại nuôi thủy sản Hoa
Kỳ ở các tiểu bang như Louisiana, Mississippi, và
Alabama đã thực sự hoàn toàn biến mất.
Ngày
nay, Trung Quốc là nhà cung cấp thủy sản nuôi số
một thế giới và chiếm lĩnh các thị trường cá
tra, cá rô phi, tôm, và lươn. Tuy nhiên, các trại
nuôi thủy sản Trung Quốc cho chúng ta một hình ảnh
thôn quê không yên bình và không hòa hợp với thiên
nhiên. Hơn thế nữa, họ còn tạo ra một cơn ác
mộng của sự bẩn thỉu kinh người như dưới địa
ngục.
Sự bẩn thỉu của các trại nuôi thủy
sản bắt đầu bằng sự kiện chỉ có dưới một
nửa nước Trung Quốc là có cơ sở giải quyết nước
thải. Vậy thì cái cách thức mà những thứ do người
thải ra này - cùng với không biết bao nhiêu thuốc
trừ sâu, phân bón, bùn than, thuốc kháng sinh, thuốc
nhuộm, và các chất gây ô nhiễm khác - tìm được
đường đến bữa cơm tối thứ Sáu ở nhà bạn
thật đáng để chúng ta được biết.
Cuộc
hành trình đau « lòng » này bắt đầu từ thượng
nguồn sông Dương Tử, chảy dài hơn 3,000 dặm đường
sông đến đồng bằng phía đông Trung Quốc. Và
chính tại đây, phần lớn thủy sản nhiễm bẩn
được nuôi để xuất sang Hoa Kỳ, châu Âu, Nhật
Bản và các nước khác.
Nằm
dọc theo dòng Dương Tử, những thành phố lớn đang
phát triển như Thành Đô và Trùng Khánh đổ thẳng
ra sông hàng tỷ tấn chất thải chưa được giải
quyết từ con người, động vật và cả chất thải
công nghiệp. Đống độc hại này sau đó lại có
thêm thời gian để lên men và rữa ra khi dồn về hồ
chứa đằng sau đập Tam Hiệp khổng lồ phía bên
dưới Trùng Khánh.
Chuyến
đi ba ngày bằng du thuyền “hạng sang” xuôi dòng
Dương Tử từ Trùng Khánh đến đập Tam Hiệp - như
nhiều du khách Hoa Kỳ vẫn thường đi - thực ra là
để nếm trải cơn ác mộng về môi trường đang bị
đe dọa. Nước hồ ánh lên một màu xanh kỳ quái và
thỉnh thoảng bốc mùi hôi hám dưới một đám khói
thường trực từ những nhà máy chạy bằng than đá.
Giống như “con chó không sủa” của Sherlock Holmes,
sự thiếu vắng hầu như hoàn toàn của các giống
chim le le, rùa, và loài vật lưỡng cư - chưa kể đến
những con cá heo nước ngọt màu hồng một thời
trước đây thường vui đùa và là biểu tượng của
dòng sông nay đã tuyệt chủng - cho thấy mức độ ô
nhiễm nghiêm trọng của một trong những con sông –
và là nguồn cung cấp nước ngọt - lớn nhất Trung
Quốc.
Còn
hỏi tại sao câu chuyện này lại liên quan đến thủy
sản Trung Quốc mà bạn ăn ở Hoa Kỳ, hãy nhớ rằng
chính những đống mùn rác trên dòng Dương Tử, cũng
như nước từ những con sông Châu Giang và Hoàng Hà
bất hạnh, đang đổ vào những cơ sở nuôi trồng
thủy sản nhập cảng ở bờ Đông Trung Quốc. Lẽ
dĩ nhiên, vì lươn, cá, tôm của Trung Quốc được
nuôi trong điều kiện độc hại như vậy, các loài
này sẽ bị nhiễm đủ loại vi trùng và ký sinh
trùng. Học giả Trung Quốc Lưu Thành Tâm (Liu
Chenglin) ghi nhận:
Các
điều kiện để nuôi trồng thủy sản ở Trung Quốc
thật tệ hại: Những người sản xuất dồn chặt
vào bể nuôi hàng ngàn cá, tôm để có sản lượng
cao nhất. Điều này tạo ra một lượng lớn chất
thải làm ô nhiễm nước và truyền những bệnh có
thể giết hết cả mẻ cá nếu không được giải
quyết hợp lý. Cho dù căn bệnh không giết hết tôm
cá trong bể nuôi, thì những loại vi trùng còn lại
như Vibrio, Listeria, hay Salmonella vẫn có thể làm cho
những người ăn phải tôm cá bị nhiễm bệnh.
Để
giải quyết điều kiện nuôi, những người nuôi cá
Trung Quốc thường bơm đủ loại kháng sinh, kháng
nấm, thuốc kháng vi rút và thuốc nhuộm bị cấm
vào nước đã bị ô nhiễm. Những độc chất này,
bao gồm từ chất nhuộm màu lục malachit,
chloramphenicol, fluoroquinolones cho tới nitrofurans, thuốc
ngừa thai, thuốc tím gentian không tránh khỏi việc
ngấm vào thịt sinh vật. Chúng có thể gây ra đủ
thứ bệnh từ ung thư, các bệnh hiếm gặp như bệnh
thiếu máu cho tới việc làm suy giảm khả năng sử
dụng kháng sinh chữa bệnh của cơ thể con
người.
Trên cả những sự vi phạm trắng trợn
này, các nhà máy chế biến thủy sản Trung Quốc còn
thường xuyên dùng những chất như khí carbon monoxide
để làm cho miếng cá có màu đỏ tươi. Việc này
không những làm tăng vẻ ngoài hấp dẫn của sản
phẩm mà còn che dấu được những sản phẩm đã hư
thối. Bạn hãy nhớ kỹ trò lừa đảo nhỏ mọn này
mỗi khi bạn thấy một miếng cá Trung Quốc đỏ
tươi và nghĩ rằng nó được “đông lạnh lúc còn
tươi nguyên”.
Tất
nhiên là ở Trung Quốc, “cái gì người Mỹ dùng
được thì thường lại không phải là cái mà dân
Tàu dùng được”. Thật vậy, cái kiểu “tô son
điểm phấn” này chịu những hình phạt rất nặng
nếu dùng cho thủy sản phục vụ thị trường nội
địa Trung Quốc.
Bây
giờ là điểm quan trọng hơn trong câu chuyện về
thủy sản Trung Quốc - và mới thực sự là điều
duy nhất bạn cần nhớ: Cơ quan Quản lý Thực phẩm
và Dược phẩm Hoa Kỳ thiếu nhiều nhân viên đến
nỗi mặc dù họ kiểm soát 80% nguồn cung thực phẩm
của Hoa Kỳ, họ chỉ có thể kiểm tra dưới 1% thực
phẩm nhập cảng. Chính vì lý do này mà mỗi khi bạn
ăn bất cứ thứ gì xuất xứ từ Trung Quốc thì có
nghĩa là bạn đang chơi “trò may rủi chết người
với thức ăn Trung Quốc” đấy. Và chính phủ Trung
Quốc cũng như nhà chức trách Hoa Kỳ muốn nói thế
nào cũng không thể cho bạn tin được là bảo đảm
an toàn !
Bán
than giả cho Newcastle
Một
vài công ty Trung Quốc hiện đang sản xuất và bán
số lượng lớn gạo giả cho những dân làng không
mảy may nghi ngờ. Theo một báo cáo đăng trên tờ
Tuần san Hong Kong ấn bản tiếng Đại Hàn, những
người sản xuất đã trộn khoai tây, khoai lang và
nhựa công nghiệp để làm gạo giả. —
Natural News
Chúng
tôi có thể sẽ thiếu trách nhiệm khi kết thúc
chương này mà không chia sẻ với bạn hai trong số
những ví dụ về trò giả mạo sản phẩm vô liêm
sỉ gần đây của Trung Quốc. Những ví dụ này đưa
ra lời cảnh báo là nếu các thương gia Trung Quốc
sẵn sàng làm giả đối với dân chúng của họ, thì
sao chúng ta lại mong họ cung cấp cho mình những sản
phẩm, thực phẩm và dược phẩm an toàn?
Ví
dụ thứ nhất là về âm mưu làm gạo giả bán cho
dân quê nghèo. Trong trò lừa lợi dụng lòng tin của
người dân này, những kẻ làm giả trộn một hỗn
hợp khoai tây và khoai lang rồi ép khuôn thành hình
những hạt gạo. Sau đó nhựa tổng hợp được thêm
vào để giữ nguyên hình cho hạt gạo. Kết quả là
bạn có thể nấu thứ gạo này hàng giờ mà nó vẫn
cứng và sượng. Một viên chức của Hiệp hội Nhà
hàng Trung Quốc cho rằng ăn ba bát gạo quỉ quái này
cũng bằng nuốt hết một cái túi plastic. Thế mà
trước đây bạn cứ nghĩ là ăn cám lúa mì làm hư
đường tiêu hóa!
Trong
ví dụ thứ hai, âm mưu rất phổ biến trong những
tỉnh lớn của Trung Quốc, bao gồm các tỉnh Cam Túc,
Hà Nam, Thanh Hải, Sơn Tây và Tứ Xuyên. Trong trò lừa
đảo này, người ta thêm hương vị và mùi thơm giả
vào gạo thường để làm cho nó có hương vị giống
như loại gạo thơm Vũ Xương đắt tiền.
Chỉ
cần thêm nửa ký hương thơm thì người chế biến
gạo gian Trung Quốc có thể tạo mùi hương cho 10 tấn
gạo. Âm mưu này bị bại lộ khi các phương tiện
truyền thông Trung Quốc công bố một báo cáo thống
kê khôi hài: Mỗi năm, nông dân trồng được 800,000
tấn gạo Vũ Xương, nhưng bán ra thị trường những
hơn 10 triệu tấn!
Không
hề thấy một sự hối hận nào từ thủ phạm của
những trò lừa đảo này. Khi buộc phải đối chất,
phát ngôn viên của một công ty bị bắt quả tang
làm giả chỉ nói: "Gạo giả bán rất chạy vì
giá rẻ so với gạo thật”. Thật là những kẻ vô
đạo đức không có tí lương tâm xã hội nào cả.
Chương
3
Chết
bởi hàng hóa rác rưởi Trung Quốc:
Bóp
nghẹt trẻ thơ từ trong nôi |
|
Amber
Donnals đang ngồi trên hiên nhà mình bỗng nghe một
tiếng nổ, tiếp theo sau là tiếng la hét. Cô quay lại
thì thấy con trai mình, Bryan, 6 tuổi, đang chạy về
phía cô, quần áo trên người đang cháy, và ngọn
lửa đang bốc ra từ phía sau của ngôi nhà lưu động
(mobile home) của gia đình Donnals. Con cô đang lái
chiếc xe địa hình (all-terrain vehicle – ATV) mới
tinh, được sản xuất tại Trung Quốc… thì bất
ngờ nó tăng tốc và lồng lên không còn điều khiển
được nữa… Chiếc xe bốn bánh màu đỏ dung tích
110 phân khối suýt nữa đâm vào một bình khí propan
trước khi đâm vào chiếc xe rơ-moóc và bốc cháy. -
St. Louis Post-Dispatch
Chẳng
có gì đáng cười về câu chuyện hãi hùng này; may
thay cậu bé Bryan đã sống sót sau khi bị phỏng
nặng. Tuy nhiên, cũng xin nhắc lại nhận xét hài
hước hoàn toàn không cố ý của ông nội Bryan sau
tai nạn bởi vì nó phản ánh tính dễ lãng quên hiện
nay của quá nhiều khách hàng người Mỹ về mối đe
dọa của “hàng hóa rác rưởi Trung Quốc”. Ông
Tim Donnals, người đã mua chiếc xe địa hình cho đứa
cháu đáng thương, nói: “Tôi đã không nghĩ rằng
nó sẽ có thể nổ tung, nếu biết tôi đã chẳng
mua nó”. Đúng vậy.
Vâng,
chúng tôi xin cảnh báo các bạn rằng từ nay trở
đi, bất cứ khi nào bạn mua cái gì từ Trung Quốc,
bạn phải lường trước điều xấu nhất có thể
xẩy ra. Đó chính là vì các nhà sản xuất Trung Quốc
có một lịch sử dài đăng đẳng về hàng hóa rác
rưởi có thể nổ tung vào bất cứ lúc nào, có thể
bốc cháy, vỡ tan, gây chấn thương và đau đớn.
Dưới đây chỉ là một số ví dụ nhỏ về vô số
các tai họa có thể xảy đến cho bạn, gia đình
bạn, hàng xóm của bạn, đồng nghiệp của bạn,
hay bạn bè của bạn nếu bạn vẫn coi nhẹ các mối
hiểm nguy như ông nội của Bryan:
Bạn
bị gãy xương đòn khi cái chắn bùn trên chiếc xe
đạp của bạn rơi vào bánh xe và bạn ngã lộn qua
ghi-đông;
Đứa
con trai tuổi thiếu niên của bạn chơi bóng chày và
bị một quả bóng bay lạc ngay vào miếng giáp bảo
vệ hạ bộ của cậu ấy – miếng giáp vỡ tan khi
quả bóng va vào, để lại vết thương đau đớn và
vết bầm tím.
Một
vị khách đến cùng xem trận bóng bầu dục Super
Bowl trên TV của bạn bị bỏng nặng khi cầm phải
chiếc điều khiển TV từ xa nóng hổi.
Ngôi
nhà của hàng xóm chung vách của bạn bị cháy rụi
vì mạch điện trong một chiếc quạt bị chạm.
Người
bạn thân nhất của bạn bị chết như trúng đạn
ghém khi chiếc điện thoại di động trong túi áo
anh ta nổ và đẩy mảnh xương vỡ vào tim anh ta.
Câu
hỏi hiển nhiên nảy sinh từ những câu chuyện như
trên xuất phát từ hầm mộ của con Rồng sản xuất
Trung Quốc là tại sao chúng ta lại không được bảo
vệ để tránh khỏi vô số mối hiểm nguy đó? Câu
trả lời nằm trong sự tan rã đáng buồn của năm
tuyến phòng thủ chính được cho là đang bảo vệ
bạn và gia đình bạn tránh khỏi những việc ghê
gớm đó.
Tuyến phòng thủ thứ nhất phải là
các công nhân Trung Quốc lắp ráp các sản phẩm của
bạn. Những người công nhân dây chuyền lắp ráp bị
làm việc quá sức, trả lương thấp, đào tạo kém,
và thường bị lạm dụng. Trong “thiên đường của
công nhân” Trung Quốc, các công nhân đó sẽ không
thể thực hiện quy trình bảo đảm phẩm chất mà
người công nhân ở Nhật Bản, Hoa Kỳ và châu Âu
vốn coi là trách nhiệm đương nhiên. Sự thật là,
việc dừng một dây chuyền sản xuất ở Trung Quốc
để khắc phục một vấn đề về phẩm chất có
thể khiến bạn bị đuổi việc. Trong tác phẩm
tuyệt vời của mình, Sản xuất tồi tại Trung Quốc,
tác giả Paul Midler đã ghi lại rằng việc báo cáo
về các lỗi phẩm chất rất có thể làm cho người
phát hiện lỗi bị gán cho cái nhãn là “kẻ thù
của nhà nước”.
Tuyến
phòng thủ thứ hai của bạn phải là chính các nhà
sản xuất Trung Quốc. Họ phải có một động cơ
mạnh trong việc sản xuất ra các sản phẩm an toàn,
ít nhất cũng là vì bạn sẽ kiện họ nếu họ
không làm vậy. Khoan đã! Chúng tôi quên chưa nói cho
bạn biết. Ngay cả khi bạn có thể tìm thấy một
công ty Trung Quốc có lỗi để quy tội - một công
việc rất khó - thì bạn vẫn khó có thể kiện họ
ra trước một tòa án Hoa Kỳ hay Trung Quốc. Trong
những trường hợp cực hiếm bạn có được một
phán quyết pháp lý, dễ gì mà đòi được tiền bồi
thường thiệt hại. Ngay cả việc gửi trả lại sản
phẩm hư hại để sửa lại cũng gần như bất khả
thi, bởi vì các nhà sản xuất lấy cớ là hải quan
Trung Quốc không cho phép “nhập cảng hàng hư hỏng”
. Nghĩa là: Trách nhiệm pháp lý chỉ đi qua Thái Bình
Dương theo dòng một chiều.
Về
tuyến phòng thủ thứ ba chống lại hàng hóa rác
rưởi Trung Quốc, đó chính ra phải là hệ thống
quy định kiểm tra Trung Quốc. Chúc bạn may mắn nữa.
Bộ máy quan liêu về an toàn sản phẩm của Trung
Quốc không chỉ đơn giản là thiếu nhân sự. Nó
được xếp hạng như là một trong những hệ thống
tham nhũng nhất thế giới. Đó không chỉ là vì các
thanh tra Trung Quốc có thể bị mua chuộc với giá rẻ
như bèo. Nó cũng còn là do nhiều xí nghiệp Trung
Quốc đang sản xuất những thứ hàng hóa rác rưởi
chết người lại thuộc quyền sở hữu của chính
phủ - và chờ chính phủ tự kiện chính mình cũng
lâu chẳng khác gì mong một ngày thấy trời xanh nắng
đẹp ở Bắc Kinh.
Còn tuyến phòng thủ thứ
tư phải chính là những thanh tra biên giới của Hoa
Kỳ và các cơ quan bảo vệ khách hàng. Tuy nhiên,
điều đáng buồn là cái mà các cảnh sát sản phẩm
Hoa Kỳ có điểm chung với phía công an sản phẩm
Trung Quốc là vấn đề thiếu nhân viên. Như chúng
ta đã thấy ở Chương 2 “Chết bởi chất độc của
Trung Quốc”, đến nay thường chỉ có 1% thực phẩm
Trung Quốc nhập vào Hoa Kỳ là được kiểm tra. Như
bạn sẽ sớm thấy thôi, chúng ta có một vấn đề
tương tự khi nói đến các cơ quan như là Ủy ban An
toàn Sản phẩm Tiêu dùng Hoa Kỳ.
Còn
đây là tuyến phòng thủ thứ năm và cuối cùng của
bạn: các công ty Hoa Kỳ đang chất đầy các kênh
bán lẻ Hoa Kỳ với các đồ nhập cảng Trung Quốc
rẻ tiền trong khi họ đáng lẽ phải thực hiện
những cuộc thử nghiệm chặt chẽ để kiểm soát
phẩm chất. Vấn đề đặc biệt rắc rối ở đây
không chỉ là sự ngây thơ của quá nhiều công ty
Hoa Kỳ quá tin cho là người Trung Quốc phải tự
kiểm tra các nhà máy của chính họ. Mà vấn đề
còn là quá nhiều công ty Hoa Kỳ sẵn sàng nhanh chóng
chối lỗi hoặc thậm chí bưng bít các vấn đề mỗi
khi có chuyện bê bối. Tôi xin nói thẳng, chính
Walmart là một trong số nhiều công ty điển hình đó!
Vậy
thì, bạn thân mến, xin hãy đọc chương này để
khóc khi chúng tôi thiết đãi bạn hết câu chuyện
này đến câu chuyện khác về vô số sản phẩm
Trung Quốc có thể gây đau ốm, làm thương tật, hay
kết liễu đời bạn. Thế rồi khi bạn đọc hết
chương này, hãy lau khô nước mắt và gọi điện
thoại, viết thư, hoặc email cho dân biểu của bạn.
Đã đến lúc tất cả chúng ta phải đứng lên như
nhân vật Peter Finch đã làm trong phim Network và gào
to lên: “Chúng tôi bực mình lắm rồi, nhất định
sẽ không mua “hàng hóa rác rưởi Trung Quốc”
nữa!”
Thành
tích kinh hãi của Trung Quốc về an toàn sản phẩm
Nhập
cảng từ Trung Quốc. Tiết kiệm tiền. Mất mạng
sống. -Leslie
LeBon
Trước
khi chúng tôi giải thích tại sao các nhà sản xuất
Trung Quốc lại có xu hướng chế tạo ra các thứ
hàng rẻ tiền chết người, điều quan trọng là
phải lột trần một trong những chuyện hoang đường
mà những kẻ biện hộ Trung Quốc thường rêu rao
rằng các sản phẩm Trung Quốc cũng an toàn như ở
các quốc gia khác. Một sự thật không thể tranh cãi
ở đây là, trong khi mọi quốc gia thỉnh thoảng cũng
sản xuất ra những sản phẩm có lỗi và nguy hiểm
– ngay cả một công ty như Toyota nổi tiếng với
phẩm chất siêu đẳng mà đôi khi cũng có vấn đề
– thì tất cả sản phẩm Trung Quốc lại được
đối xử như một thứ hạng riêng biệt.
Để
chứng minh điều này, chúng tôi có thể trích dẫn
cho bạn hết thống kê này đến thống kê khác. Tuy
nhiên, việc lật lại nhanh thành tích an toàn sản
phẩm của Trung Quốc ở châu Âu chắc là cũng quá
đủ.
Trong
năm 2009, Trung Quốc nhận được đến 58% số cảnh
báo an toàn sản phẩm từ các cơ quan kiểm tra châu
Âu, trong khi đó chỉ có 2% số hàng nhập cảng của
Hoa Kỳ sang châu Âu là bị cảnh báo. Xin lưu ý: Số
lượng hàng nhập cảng của Trung Quốc sang châu Âu
chỉ lớn hơn chút ít so với Hoa Kỳ: 18% là của
Trung Quốc so với 13% là của Hoa Kỳ. Một phép tính
đơn giản với những tỷ số này cho thấy rằng các
sản phẩm của Trung Quốc đã bị cảnh cáo vì vi
phạm an toàn với tỷ lệ 22 lần cao hơn so với Hoa
Kỳ.
Và đây là điều ngạc nhiên nhất. Mặc
dầu Liên minh châu Âu (EU) đã nỗ lực cải thiện
sự tuân thủ bảo đảm phẩm chất sản phẩm của
Trung Quốc – kể cả một quá trình kiểm tra đặc
biệt cho các hàng hóa Trung Quốc và gửi các thanh
tra châu Âu đến Trung Quốc để huấn luyện các
viên chức chính phủ về các tiêu chuẩn an toàn sản
phẩm – Trung Quốc đã vượt thành tích của chính
mình và đưa tỷ lệ nhận cảnh báo của Âu châu
lên tới mức vượt bực là 61% trong năm 2010.
Nói
một cách tổng quát hơn: Bạn không thể tin các cơ
quan kiểm tra Trung Quốc sẽ bảo vệ bạn. Thực tế,
hầu như đến một nửa số lần khi mà các cơ quan
kiểm tra châu Âu đưa ra cảnh báo các đối tác
Trung Quốc về một sản phẩm hư hỏng hay không an
toàn, thì Trung Quốc chẳng làm gì cả. Không. Zero.
Hoàn toàn không! Lý do chính: các quan chức chính phủ
không thể tìm ra nhà sản xuất Trung Quốc đã làm
sản phẩm hư hại. (Đây có thể hoặc là tình huống
rất tiện lợi cho Trung Quốc, hoặc là một thước
đo mức độ thiếu lương tâm của quá nhiều nhà
máy “dã tâm” của Trung Quốc).
Tại
sao các nhà sản xuất Trung Quốc lại làm ra nhiều
hàng hóa rác rưởi đến vậy
Chỉ
có người Trung Quốc mới có thể biến một ghế
sofa bằng da thành một bồn tắm axít, một nôi trẻ
em thành một vũ khí giết người, và một miếng pin
điện thoại di động thành một mảnh đạn xuyên
tim. -
Ron Vara
Bây
giờ, khi chúng ta biết rằng Trung Quốc sản xuất ra
các hàng hóa nguy hiểm hơn bất cứ quốc gia nào
trên thế giới ngay cả sau khi đã điều chỉnh cho
thị trường toàn cầu khổng lồ của nó, chúng ta
hãy đào sâu hơn chút nữa để xét xem tại sao điều
đó lại xảy ra. Như bạn sẽ thấy sau khi chúng tôi
trình bầy một loạt các “lò chế hàng hóa rác
rưởi” Trung Quốc, những vấn đề này trải khá
rộng, từ các phương pháp sản xuất cẩu thả và
sự ngu si tệ hại, cho đến các trò chơi bất chính
hơn như “Làm hàng giả Trung Quốc” và trò tiêu
khiển mang tính quốc gia của những kẻ dã tâm Trung
Quốc mà chúng ta gọi là “Trò lừa bịp phẩm
chất”.
Do
tội sản xuất cẩu thả: Vách tường thạch cao do
Trung Quốc khiến nhiều người Mỹ điêu đứng
Khi
Bill Morgan, một viên cảnh sát về hưu, dọn đến
ngôi nhà mơ ước mới xây của mình ở Williamsburg,
tiểu bang Virginia, thì vợ và con gái của ông bị
mắc chứng chảy máu cam và đau đầu thường xuyên.
Có một thứ mùi hôi hám nặng ngự trị trong ngôi
nhà. Tất cả các đồ kim loại bên trong nhà đều
bị ăn mòn hay biến màu thành đen. Trong
một thời gian ngắn, ông Morgan đã phải dọn ra.
Chứng chảy máu cam và đau đầu có ngừng, nhưng các
hậu quả về tài chính đã đẩy ông vào tình trạng
phá sản. -The
New York Times
Trường
hợp lạ của vách thạch cao Trung Quốc gây ăn mòn
cho ta một bài học điển hình về nghệ thuật của
các phương pháp làm hàng giả của Trung Quốc. Hàng
triệu tấm vách thạch cao có vấn đề hóa ra đã bị
nhiễm bẩn bởi các hợp chất chứa lưu huỳnh gây
ăn mòn bắt đầu từ khi các nhà sản xuất Trung
Quốc dùng loại thạch cao có lượng lưu huỳnh cao
nhưng rẻ tiền hơn. Sau đó, để tiết kiệm nhiều
tiền hơn nữa, các nhà sản xuất đã cắt giảm
thạch cao và thay thế bằng tro mịn (fly ash - tro bay)
thải ra từ nhà máy nhiệt điện dùng than chứa
nhiều lưu huỳnh đầy tai tiếng của Trung Quốc. Quá
trình sản xuất cẩu thả này lại được suy tôn
một cách bỉ ổi thô tục hơn nữa khi các tấm vách
thạch cao gây ăn mòn được xếp lẫn lộn và chuyển
đến Hoa Kỳ mà không được giám sát hay thử nghiệm
đúng đắn.
Xin nói rõ thêm, chất nhiễm bẩn
lưu huỳnh trong sản phẩm vách thạch cao Trung Quốc
không chỉ khiến cho không khí trong nhà có mùi trứng
thối và làm hư hại đường hô hấp. Các khí chứa
lưu huỳnh còn mạnh đến nỗi chúng ăn mòn các
đường ống, khiến cho các đồ điện tử gia dụng
và các máy điều hòa không khí bị hỏng, làm đen
đồ trang sức bằng bạc, và giết chết thú nuôi
trong nhà. Trên thực tế, vách thạch cao Trung Quốc
nhiễm bẩn đã được tìm thấy trong khoảng 100,000
ngôi nhà mới của Hoa Kỳ tại ít nhất là hàng chục
tiểu bang. Những tiểu bang bị ảnh hưởng nặng
nhất là những bang có khí hậu nóng và ẩm, vì nó
tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát tán các
khí chứa lưu huỳnh.
Tiểu
bang Florida là tâm điểm của vụ khủng hoảng –
với ưu điểm duy nhất là vụ khủng hoảng này bất
ngờ trở thành “yếu tố kích thích hiệu nghiệm
theo thuyết kinh tế của Keynes” đối với nền kinh
tế địa phương. Thực vậy, ngành thương nghiệp
thay thế vách thạch cao Trung Quốc nhiễm độc đã
phát triển mạnh. Dân biểu Robert Wexler (đảng Dân
chủ - tiểu bang Florida) nói: “Florida vô cùng nhạy
cảm với bão, và cuộc khủng hoảng này giống như
một cơn bão thầm lặng. Toàn bộ những khu dân cư
bị quét sạch…”
Khi
nói về các cơn bão, người dân của tiểu bang New
Orleans cũng nhận lãnh một phần không kém từ hậu
quả của hàng hóa rác rưởi Trung Quốc này trong quá
trình tái thiết sau cơn bão Katrina. Ngay cả huấn
luyện viên trưởng của đội bóng bầu dục New
Orleans Saints, ông Sean Payton, cũng đã phải rời khỏi
ngôi nhà của mình ở Mandeville, Louisiana. Quả thật
là họa vô đơn chí?
Rõ
ràng là, vách thạch cao được cho là “rẻ” đó
của Trung Quốc đã làm cho gia chủ Hoa Kỳ thiệt hại
khoảng 15 tỷ đô-la chưa kể tiền mua. Đó là vì
chi phí sửa chữa cho mỗi ngôi nhà phải mất từ
100,000 đô-la đến 250,000 đô-la. Tất nhiên, phần
lớn các nhà sản xuất Trung Quốc có liên quan đã
không chỉ từ chối bồi thường thiệt hại; như đã
nói trong ví dụ về châu Âu ở trên, hầu hết trong
số họ thậm chí đã không thể tìm ra được.
Phí
tổn cho người dân đóng thuế cũng rất cao. Để
điều tra vụ xì-căng-đan, Ủy ban An toàn Sản phẩm
Tiêu dùng đã phải chịu các chi phí tuân thủ (về
tiêu chuẩn sản phẩm) cao nhất trong lịch sử của
cơ quan này, trong khi cơ quan thuế IRS đã phải đặt
ra khoản giảm trừ thuế đặc biệt để giúp cho
các gia chủ bị ảnh hưởng có thể thanh toán hết
được phí tổn của những hư hỏng và sửa chữa
nhà có lắp vách thạch cao. Đúng vậy, các bạn ạ:
tất cả chúng ta đều phải trả giá cho cú lừa
vách thạch cao này trong tiền đóng thuế của mình,
dù chúng ta không liên quan trực tiếp đến sự việc.
Nếu có một bài học về hàng hóa Trung Quốc rẻ
nhưng mà không rẻ, thì đó chính là vụ này. Cũng
chính vụ này đã cho thấy câu “tiền nào của nấy”
là chí lý.
Do
sự ngu dốt đơn thuần: Bạn có muốn bị bệnh da
Eczema vì cái ghế sofa đó không?
Một
đêm tôi thấy cháu bé mặt đầy máu bởi vì cháu
đã cào mặt trong khi ngủ. Chúng tôi đã phải đeo
găng tay cho cháu. -
Rebecca Lloyd-Bennett
Phương
pháp sản xuất cẩu thả ít ra đã là nguồn gốc
của một số vấn đề với hàng hóa rác rưởi
Trung Quốc, nhưng đôi khi đó chỉ là do sự ngu dốt.
Làm sao bạn có thể giải thích cách khác cho việc
sử dụng một trong những chất gây dị ứng mạnh
nhất từng biết đến trong y khoa – chất dimethyl
fumarate – trong việc sản xuất các mặt hàng da để
bọc ghế sofa và các đồ đạc khác trong nhà?
Tấn
trò
Chết dưới tay Trung Quốc đặc
biệt này đã bắt đầu trong những nhà kho nóng và
ẩm tại Quảng Đông. Đó là một tỉnh bên bờ biển
phía Nam Trung Quốc gần với Hồng Kông và là một
địa danh mà người Mỹ nói chung thường gọi là
Canton.
Để chống mốc nảy nở trên da thuộc
chưa đủ chín dùng để làm gối và đệm, một nhóm
các nhà sản xuất đồ nội thất của Trung Quốc đã
bắt đầu kèm chất dimethyl fumarate (DMF) vào hàng da
thuộc. DMF là một hóa chất cực mạnh có thể xuyên
qua quần áo và làm phỏng nạn nhân, và dù ở nồng
độ rất thấp cũng có thể tạo ra bệnh eczema loang
rộng rất khó điều trị.
Khúc
quanh thú vị hơn nữa trong câu chuyện ngớ ngẩn và
ngày càng ngu ngốc này là cách thức các nhà sản
xuất dùng chất DMF. Họ cho nó vào các túi nhỏ bên
trong các tấm đệm da nghĩ rằng chất diệt mốc có
thể được thoát ra bất cứ khi nào nhiệt độ tăng
lên quá cao trong nhà kho của họ hoặc dọc đường
vận chuyển đến thị trường. Cái mà những kẻ
đần độn Quảng Đông này không tính đến là chất
DMF cũng có thể được thoát ra do nhiệt của cơ thể
khi con người ngồi lên ghế sofa, và các đồ nội
thất yêu thích của họ. Y như vậy, khi DMF thoát ra
hàng ngàn người tiêu dùng từ Phần Lan, Pháp, Ba
Lan, Thụy Điển, và Vương quốc Anh đã bị bỏng da
bởi đồ đạc trong nhà. Chỉ riêng ở Anh, gần
2,000 nạn nhân đã “phải chịu những chứng bệnh
về da hoặc mắt nghiêm trọng, khó thở, hay các biến
chứng khác”.
Trong
nhiều vụ “cái chết bởi hàng hóa rác rưởi Trung
Quốc”, trẻ em nhỏ là nạn nhân nhiều nhất. Bé
trai người Anh tên là Archie Lloyd-Bennett đã bị phỏng
trên hầu khắp cơ thể. Trong một diễn biến đau
lòng, em bé gái Scotland 3 tuổi tên là Angel Thomson đã
bị phỏng tệ tới mức các bác sĩ nghi đứa bé đã
bị cố tình đốt bằng lửa thuốc lá. Vì sự nghi
ngờ đó, bác sĩ bệnh viện đã liên lạc với Sở
Dịch vụ Xã hội để báo cáo có thể là một ca
con cái bị bố mẹ hành hạ; trước khi thủ phạm
Trung Quốc thực sự bị phát giác, mẹ của Angel là
Ann đã bị một phen hoảng hốt vì sợ con gái bà sẽ
bị cách ly khỏi mẹ.
Kết
cục có thể đoán trước được của câu chuyện
này là: Trong khi tòa ra lệnh cho các thương gia Anh đã
bán thứ hàng bọc da gây chết người kia phải trả
32 triệu đô-la cho các nạn nhân, thì các nhà sản
xuất Trung Quốc không bị phạt một xu nào cả –
thực một điều sỉ nhục đối với cảm xúc của
chúng ta và cả xứ Scotland.
Do
tội làm hàng giả #1: Không thể làm cho chì của
Trung Quốc biến mất
Ngày
mồng 2 tháng 8, Mattel thu hồi 1.5 triệu đồ chơi
Trung Quốc của hãng Fisher-Price, bao gồm cả các con
búp-bê Dora, Big Bird, và Elmo – vì có chứa sơn pha
chì. Vào tháng 6, khoảng 1.5 triệu đồ chơi xe lửa
gỗ hiệu Thomas & Friends, nhập cảng từ Trung
Quốc, bị thu hồi vì sơn chứa chì. Chì là độc tố
nếu trẻ em cho vào miệng. -
MSNBC.com
Chúng
ta đã quen với vai trò của sự sản xuất sản phẩm
kém phẩm chất Trung Quốc trong việc tạo ra thực
phẩm và dược phẩm gây chết người. Chúng ta đã
thấy trong Chương 2 khi các thương gia Trung Quốc dã
tâm đã giảm chi phí bằng cách cho thêm các chất
như melamine vào thức ăn cho thú vật nuôi và
chondroitin sulfate vào heparin. Tiếc thay, các nhà sản
xuất Trung Quốc lại chơi cùng cái trò ấy đối với
nhiều sản phẩm khác. Không đâu mà điều này lại
thể hiện rõ ràng hơn là cuộc chiến đấu đang
tiếp diễn nhằm loại bỏ các kim loại nặng như
chì và cadmium ra khỏi các kệ hàng bán lẻ tại Hoa
Kỳ.
Chì
gây tác hại đến trẻ nhỏ khốc liệt nhất bởi
vì bộ óc và cơ thể đang phát triển của trẻ nhạy
cảm một cách đặc biệt ngay cả đối với những
lượng tương đối nhỏ của kim loại nặng. Chỉ vì
những lượng chì nhỏ, những đứa trẻ có thể bị
những thương tổn không hồi phục được, mà trong
cuộc sống sau này chúng sẽ sinh ra đủ thứ bệnh
trạng: từ rối loạn do thiếu tập trung, hiếu động
thái quá, cho đến hành vi phạm tội, não bộ bị
xưng phù, và hư hại các nội tạng quan trọng. Bởi
vì trẻ em chịu rủi ro nhiều nhất do các tác hại
của chì, cho nên thật vô cùng khinh bỉ rằng có quá
nhiều các sản phẩm Trung Quốc như vậy bị nhiễm
chì lại nhắm vào con trẻ của chúng ta – cho dù nó
là các đồ chơi nổi tiếng như Sesame Street, đồ nữ
trang cho thiếu niên, hay các đoàn tàu bằng gỗ cổ
điển.
Cần nói thêm là những kẻ dã tâm
Trung Quốc làm đồ nhiễm độc rất thích cho chì
vào sơn, bởi vì, mặc dù gây hại não bộ vĩnh
viễn, sơn pha chì lại khô rất nhanh và do đó giảm
chi phí sản xuất một cách đáng kể. Chì cũng là
một chất giá thấp, dễ uốn nắn hơn có thể thay
thế các kim loại đắt hơn như nickel và bạc trong
các sản phẩm như đồ trang sức và nữ trang rẻ
tiền.
Như
đoạn trích của MSNBC ở đầu phần mục này cho
thấy, trường hợp điển hình do các tai ương chì
Trung Quốc là công ty Mattel. Nhiều năm trước đây,
công ty này đã dính vào một trong những vụ bê bối
sản phẩm tai tiếng nhất trong thời hiện tại –
một vụ mà hàng triệu đồ chơi bị thu hồi.
Một
bài học quan trọng rút ra từ vụ thảm họa vì chì
của công ty Mattel là, trái ngược với luận điệu
thông thường của một số nhà biện hộ cho Trung
Quốc, dù các công ty Hoa Kỳ có bao nhiêu năm kinh
nghiệm làm ăn tại Trung Quốc hoặc các công ty này
tin tưởng có quan hệ mật thiết như thế nào đối
với đối tác cung cấp hàng từ phía Trung Quốc thì
các công ty như Mattel vẫn có thể bị lừa – và
trẻ em khắp thế giới vẫn có thể bị tổn thương.
Do
tội làm hàng giả #2: Bố ơi! Có bột gì trên xe đạp
ba bánh của con vậy?
Khi
nói về chì, chúng tôi sẽ thiếu sót nếu không chia
sẻ với bạn câu chuyện nhỏ này liên quan đến
những xe đạp ba bánh của Trung Quốc được sơn
bằng sơn bột chứa một lượng chì lớn. Câu chuyện
này đáng chú ý bởi vì nó cho thấy rõ đôi khi tất
cả chúng ta lại có thể bị biến thành nạn nhân
bởi các “tội sơ ý” của các công ty Hoa Kỳ đồng
lõa.
“Câu
chuyện Xe ba bánh” này bắt đầu từ khi có các lo
ngại về phẩm chất của sản phẩm Trung Quốc năm
2007 khi một công ty bán hàng cho một học khu lớn đã
quyết định xét nghiệm chì trong các sản phẩm làm
tại Trung Quốc. Những xét nghiệm này quả thực đã
phát hiện ra các xe ba bánh gây độc hại.
Khi
đó, theo một quản đốc mua hàng, công ty đã ra lệnh
cho công ty bán hàng “ngừng giao hàng” để tránh
đến tay những người tiêu dùng khác. Sau đó công
ty gửi tất cả số hàng còn lại đến một cửa
hàng địa phương để cạo sơn và sơn lại từng
chiếc xe. Đó là cách hành xử của thương nghiệp
gương mẫu.
Điều
không gương mẫu là “tội sơ ý”. Theo quản đốc
mua hàng, công ty đã không thông báo cho học khu về
các xe ba bánh đã giao. Theo bà ấy thì không có chiếc
xe nào trong số này được thu hồi.
Thực
vậy, thu hồi có thể gây tốn kém rất nhiều cho
công ty bán hàng và làm hại đến mối quan hệ lâu
dài với khách hàng. Điều mà câu chuyện này, giống
như nhiều câu chuyện khác, cho thấy là khi một hãng
có tiếng của Hoa Kỳ làm ăn với một nhà sản xuất
Trung Quốc để tiết kiệm tiền, thì hãng thường
sẽ tự thấy bị lao vào một tình trạng tự hại
mình. Ít nhất dựa trên câu chuyện này, bạn không
nên tin cậy vào các công ty Hoa Kỳ rằng họ luôn
luôn “làm điều đúng đắn”.
Do
tội làm hàng giả #3: Nếu họ không muốn chì, hãy
cho họ ăn cadmium
Walmart
nói hôm thứ Tư rằng họ đang dỡ bỏ toàn bộ một
loại mặt hàng dây chuyền đeo cổ và vòng tay nhãn
hiệu Miley Cyrus khỏi các kệ hàng của mình sau khi
các xét nghiệm thực hiện cho hãng thông tấn AP đã
tìm ra rằng các đồ nữ trang chứa hàm lượng cao
kim loại cadmium độc hại. … Walmart đã biết về
cadmium trong đồ nữ trang hiệu Miley Cyrus, cũng như
trong một loại mặt hàng khác, không liên quan, như
xuyến-vòng đeo tay vào hồi tháng Hai... nhưng vẫn
tiếp tục bán các thứ hàng đó. -
The Associated Press
Sau
khi đã bị khám phá nhiều trường hợp sử dụng
chì bất hợp pháp, những kẻ dã tâm Trung Quốc đã
tìm ra một cách để làm giả các sản phẩm của họ
bằng các kim loại nặng khác cũng gây chết người
như vậy nhưng khó bị phát hiện hơn, như antinomy,
barium, và tai hại nhất là cadmium.
Trên
thực tế, cadmium thực sự là một nguồn tai họa
lớn. Là một chất đã được biết là gây ung thư,
nó có thể gây ra các phản ứng hô hấp nghiêm trọng
như viêm phổi độc tính và chứng bệnh phù phổi.
Cadmium cũng có thể hút các chất khoáng ra khỏi
xương, do đó gây ra đau lưng và đau khớp trầm
trọng đồng thời tăng nguy cơ gẫy xương; nó còn
có thể gây ra rối loạn thận dẫn đến hôn mê.
Tất
nhiên, độc tính ghê gớm của cadmium chưa từng làm
cho những kẻ làm hàng giả Trung Quốc dừng việc
thay thế nó cho kim loại chì vì chì dễ bị phát
hiện hơn. Hơn nữa, Trung Quốc là nơi sản xuất kim
loại này lớn nhất thế giới. Đáng tiếc là, trong
sự biến thái mới này của một trò chơi cũ, một
số công ty lớn của Hoa Kỳ lại đã sẵn sàng là
những kẻ tòng phạm.
Ví
dụ, vào năm 2010, hãng tin AP đã tiến hành một
chiến dịch bí mật bằng cách cho tiến hành một
loạt các xét nghiệm độc lập về các sản phẩm
Trung Quốc. Những xét nghiệm này đã tìm thấy
cadmium có trong tất cả loại đồ trang sức Miley
Cyrus mà hãng Walmart đã quảng cáo như là một món
hàng đặc biệt cho tuổi thiếu niên. Không cắt
nghĩa được – và thật đáng khinh – suốt trong
mấy tháng trời Walmart đã không ngưng việc bán các
đồ trang sức viện cớ rằng “quá khó khăn trong
việc xét nghiệm các sản phẩm đã được bày trên
kệ của hãng”. Trong cùng năm 2010, Walmart đã bị
phát giác việc bán các mặt dây chuyền cho trẻ em
có pha cadmium, được sản xuất để mô phỏng các
nhân vật trong bộ phim Disney Công chúa và Hoàng tử
Ếch.
Trong
một vụ tương tự, cửa hàng của hãng phim Warner
Brothers ở Burbank, California, đã bị bắt quả tang
khi các ly uống nước Wizard of Oz Tin Man của họ bị
phát hiện được phủ sơn chứa chì với mức độ
cao hơn 1,000 lần mức cho phép của liên bang. Mức độ
chì cao cũng được phát hiện trong các ly Người dơi
Batman và Siêu nhân Superman – trong khi lớp men trang
trí trong nhiều loại ly cũng có các mức độ cadmium
khá cao.
Khi
bị tra vấn tại sao họ đã sẵn sàng đặt trẻ em
Hoa Kỳ vào đường hiểm nguy như vậy, ban điều
hành hãng biểu tượng của Hoa Kỳ này đã chọn
cách bênh vực chính mình với câu trả lời không
thể tin được: “Người ta thường hiểu rằng
người tiêu dùng chính của các sản phẩm này là
người lớn, thường là người sưu tập”. Ồ, thật
vậy sao?
Do
“Trò lừa bịp phẩm chất”: Trong khi các công ty
của chúng ta ngủ
Một
khách hàng lớn phàn nàn rằng các chai của chúng ta
được làm quá mỏng. Nhà máy (Trung Quốc) đã lặng
lẽ điều chỉnh các khuôn đúc để tốn ít nhựa
hơn cho mỗi cái chai. Kết quả là, khi chai bị bóp,
dù là bóp rất nhẹ, thì cũng bẹp xuống… Sau khi
điều tra, (chúng tôi) phát hiện ra rằng chai đã
trải qua hơn một lần biến đổi. Nhà máy đã nhiều
lần điều chỉnh giảm nhựa đi trong giai đoạn mấy
tháng trời. Những chiếc chai đầu tiên ra khỏi dây
chuyền cứng chắc, nhưng sau đó chúng chỉ đạt mức
tạm chấp nhận được. Khi không còn ai trong chúng
ta nhận ra sự thay đổi ban đầu nữa, thì nhà máy
quyết định lại tiếp tục điều chỉnh… Dùng ít
nhựa hơn sẽ khiến tiết kiệm tiền, nhưng khoản
tiết kiệm này đã không được chia sẻ với nhà
nhập cảng. Chỉ có một thứ đưa đến cho nhà nhập
cảng là sự tăng rủi ro sản phẩm. -
Paul Midler, Sản xuất tồi tại Trung Quốc
Đã
đến lúc tất cả chúng ta trở nên quen thuộc hơn
với một trong những trò chơi ưa thích nhất mà
những kẻ làm hàng dỏm Trung Quốc hay chơi với
những khách nước ngoài ngây thơ và dễ tin. Trò
chơi này mà chúng tôi gọi là "Trò lừa bịp
phẩm chất" đi đôi với một trò chơi bổ sung
mà chúng tôi đặt cho cái tên là “Đòn độc Thượng
Hải”. Sau đây ta sẽ thấy các trò chơi bắt đầu
ra sao.
Một
giám đốc người Mỹ, nôn nóng muốn đưa hợp đồng
sản xuất ra ngoài (outsource) công ty mình để cắt
giảm chi phí, tới Trung Quốc để tìm một nhà sản
xuất Trung Quốc giá rẻ. Khi tìm được một ứng
viên khả dĩ, vị giám đốc Hoa Kỳ trình bày các kế
hoạch hay thiết kế chi tiết cho nhà sản xuất Trung
Quốc, chi tiết hóa một cách chính xác những điều
cần thiết. Lúc này, một trong ba kịch bản có thể
xảy ra.
Trong
kịch bản tốt nhất, nhà sản xuất Trung Quốc ký
một thỏa thuận lâu dài với công ty Hoa Kỳ, sản
xuất các sản phẩm phẩm chất cao với giá thấp,
và hai bên sống thịnh vượng mãi sau đó.
Thứ
hai, có thể dễ xảy ra hơn là Đòn độc Thượng
Hải. Ở đây, nhà sản xuất Trung Quốc từ chối
lời đề nghị sản xuất sản phẩm – nhưng giữ
lại bản thiết kế của công ty Hoa Kỳ. Trong vòng
vài tháng, nhà sản xuất Trung Quốc đó sẽ sản
xuất mặt hàng của công ty Hoa Kỳ để bán như là
một đối thủ cạnh tranh – bằng cách sử dụng
thiết kế ăn cắp của công ty Hoa Kỳ.
Khả
năng thứ ba là "Trò lừa bịp phẩm chất"
được mô tả bởi Paul Midler trong đoạn trích ở
trên từ cuốn sách mà ông tiết lộ qua nhan đề Sản
xuất tồi tại Trung Quốc. "Trò lừa bịp phẩm
chất" bắt đầu khi nhà sản xuất Trung Quốc
nhanh chóng chế ra một phiên bản thử nghiệm bêta
phẩm chất cao của sản phẩm yêu cầu rất chính
xác so với quy định kỹ thuật. Trên cơ sở của
mẫu hàng phẩm chất cao đó, công ty Hoa Kỳ ký hợp
đồng với nhà cung cấp Trung Quốc mới cho một khối
lượng sản phẩm nhất định trên cơ sở hằng tuần
hoặc hàng tháng.
Lúc
đầu, công ty Hoa Kỳ sẽ rất rất hài lòng với vụ
làm ăn. Chi phí được cắt giảm đáng kể - thường
là tới 50%. Trong thời kỳ trăng mật này của Trò
lừa bịp phẩm chất, công ty Hoa Kỳ vớ được lợi
lộc béo bở; và chính vào lúc đỉnh điểm hạnh
phúc này trong mối quan hệ thì Trò lừa bịp phẩm
chất bắt đầu một cách nghiêm túc. Vì, theo thời
gian, nhà sản xuất Trung Quốc - một cách chậm rãi,
và đôi khi rất bé nhỏ và tinh vi - bắt đầu thay
thế các nguyên vật liệu hay các bộ phận kém phẩm
chất vào như là một cách gia tăng lợi nhuận. Cạo
một tý ở đây, nạo một tý ở kia. Nhưng không bao
giờ cạo quá nhiều trong một lần khiến cho sự
điều chỉnh phẩm chất có thể bị phát giác.
Tất
nhiên, đội ngũ quản lý của công ty Hoa Kỳ càng
ngây thơ lại sẽ càng tin tưởng vào đối tác Trung
Quốc để tiếp tục sản xuất ra các sản phẩm có
phẩm chất và bỏ qua sự thử nghiệm kỹ càng. Theo
cách này, công ty Hoa Kỳ không chỉ đưa sản xuất
của mình ra nước ngoài mà còn cho ra đi cả khâu
quản lý rủi ro của mình.
Công
ty Cao su Hàng châu Trung Sách (Zhongce) giảm chi phí và
giết người Mỹ
Công
ty Cao su Hàng Châu Trung Sách đã từ chối nói cho các
nhân viên của công ty Foreign Tire Sales biết họ đã
bỏ công đoạn dán lớp dính cao su giữa lốp xe khỏi
quy trình sản xuất được bao lâu rồi… công ty
Foreign Tire Sales nói họ tin rằng họ đã mua khoảng
450,000 bánh xe đáng nghi ngờ từ công ty Trung Quốc.
Hàng Châu Trung Sách bán bánh xe cho ít nhất sáu công
ty nhập cảng hay công ty phân phối khác ở Hoa Kỳ.
-The
New York Times
Một
ví dụ điển hình về Trò lừa bịp phẩm chất có
thể được lấy từ công ty Cao su Trung Sách ở Hàng
Châu. Trường hợp này đáng chú ý bởi vì nó một
lần nữa cho thấy rõ tình huống khó xử về mặt
đạo đức mà chính các công ty Hoa Kỳ có thể rơi
vào trong những mưu toan của các nhà sản xuất Trung
Quốc.
Công
ty Hoa Kỳ từng bị xỏ mũi là công ty Foreign Tire
Sales ở Union, tiểu bang New Jersey. Trên thực tế,
công ty Foreign Tire Sales đã nhập cảng bánh xe từ
nhiều năm khi công ty Hàng Châu bắt đầu dùng chỉ
một nửa của một lớp dính cao su quan trọng nhằm
bảo đảm cho sự an toàn của bánh xe. Khi thay đổi
này diễn ra không bị phát hiện, thì công ty Hàng
Châu đã leo thang trò lừa bịp bằng cách bỏ hẳn
lớp dính cao su ra khỏi sản phẩm. Điều này được
thực hiện, tất nhiên, chỉ để xén bớt mấy đồng
xu lẻ từ chi phí sản xuất.
Cái giá của Trò
lừa bịp phẩm chất này là vô số vụ hư bánh xe,
vụ đụng xe của một xe cấp cứu ở New Mexico, và
một vụ đụng xe chết người ở Pennsylvania cướp
đi hai sinh mạng và làm bị thương nặng một người
khác. Thật là ngạc nhiên, ban quản trị của công
ty Foreign Tire Sales “đợi hơn hai năm nói ra những
nghi ngờ của họ về các vấn đề của những bánh
xe”.
Trong khi đó, trong suốt trò chơi lừa bịp
này, ban quản trị của công ty Hàng Châu đã ngăn
chặn các đối tác Hoa Kỳ không cho biết về việc
bỏ lớp dính cao su trong bánh xe, nhưng công ty Foreign
Tire Sales vẫn tiếp tục bán ra bánh xe Trung Quốc mặc
dù họ đã nghi ngờ. Trong cuộc thu hồi gần nửa
triệu chiếc bánh xe sau đó, công ty Foreign Tire Sales
hầu như đã bị phá sản trong khi công ty Hàng Châu
tránh né hết tất cả trách nhiệm.
Tại
sao bạn không thể tin vào các cơ quan kiểm tra Hoa Kỳ
Trong
loạt bài Các Nguy cơ Tiềm ẩn, tờ Tribune đã đưa
ra tài liệu cho thấy Ủy ban An toàn Sản phẩm Tiêu
dùng thiếu nhân sự và trì trệ đã thất bại như
thế nào trong việc bảo vệ trẻ em tránh khỏi các
mối nguy trong các đồ chơi và các sản phẩm khác.
Cuộc điều tra của tờ báo về các nôi thông dụng
hiệu Simplicity nhấn mạnh rằng, ngay cả sau cái chết
của một em nhỏ, thì cơ quan này vẫn không làm tròn
vai trò kiểm soát của mình, khiến cho trẻ em dễ bị
tổn thương vì một mối nguy đã được phát hiện.
Các cuộc phỏng vấn và các bản ghi chép cho thấy
nhân viên điều tra liên bang được giao việc phụ
trách vụ tử vong của bé Liam đã không kiểm tra nôi
trong lần tìm hiểu ban đầu của nhân viên này, và
đã không tìm ra kiểu nôi hay công ty sản xuất nôi.
Nhân viên điều tra Michael Ng nói trong một cuộc
phỏng vấn tháng này: “Chúng tôi phụ trách nhiều
vụ quá. Khi tôi làm xong một báo cáo, tôi gửi nộp,
và thế thôi. Tôi tiến tục vụ kế. Chúng tôi có
thể dành thêm thời gian, nhưng chúng tôi phải làm
gấp rút. Chúng tôi phải làm tiếp”. - Chicago
Tribune
Một
trong những câu chuyện về hàng hóa rác rưởi Trung
Quốc kéo dài nhất trong lịch sử Hoa Kỳ - cuộc
chiến đấu để giữ cho các em bé của chúng ta an
toàn trong nôi và xe đẩy - nhấn mạnh một cách
thích đáng điểm cần lưu ý là bạn sẽ không được
bảo vệ đầy đủ để tránh khỏi hàng hóa rác
rưởi Trung Quốc dựa vào hệ thống kiểm tra an toàn
sản phẩm của Hoa Kỳ. Trên thực tế, các nôi và
xe đẩy làm tại Trung Quốc đã và đang cắt, làm
ngộp thở, làm kẹt, và bóp cổ trẻ em Hoa Kỳ trong
hơn 5 năm qua.
Nạn
nhân được ghi nhận đầu tiên của nôi Trung Quốc
là bé Liam Johns vào năm 2005. Người mẹ đau khổ nói
với hãng tin CBS News như sau: “Thành bên của nôi đã
bật ra tạo thành một chữ “v”, nó khiến cho con
tôi trước hết bị kẹt chân và sau đó kẹt cổ.
Tôi đã làm hô hấp nhân tạo cho cháu và đợi xe
cấp cứu đến, họ đưa con tôi tới bệnh viện và
bệnh viện báo là con tôi đã chết”.
Thực
ra, bé Liam đã chết oan. Cả công ty bán nôi nhập
cảng từ Trung Quốc – hãng Simplicity có văn phòng ở
Pennsylvania – lẫn Ủy ban An toàn Sản phẩm Tiêu
dùng, đã không cảnh báo cho các bậc cha mẹ biết
về nguy cơ tử vong của nôi trẻ em một cách kịp
thời. Như tờ Chicago Trinbune đã tường thuật, “mặc
cho có 55 đơn khiếu nại, 7 trẻ em vẫn bị kẹt, và
3 em bị chết, nhưng phải mất hàng năm trời Ủy
ban An toàn Sản phẩm Tiêu dùng mới cảnh báo về 1
triệu chiếc nôi hư hỏng”.
Tại
sao bạn không thể tin vào các công ty Hoa Kỳ
Đối
với Trung Quốc là họ coi sản xuất cẩu thả là
việc làm bình thường. Luôn luôn có thể có cái gì
đó do họ sản xuất sẽ làm phương hại hoặc giết
chết trẻ em. Thực ra, công ty Maclaren Strollers đã
làm điều như vậy đối với trẻ thơ. Loại xe đẩy
này đã làm cụt các ngón tay trẻ em… Tôi phải tự
hỏi tại sao các công ty Hoa Kỳ của chúng ta vẫn
đang tiếp tục chuyển công ăn việc làm sang Trung
Quốc, và do đó tiếp tục gây nguy hiểm cho con cháu
chúng ta. Họ chắc chắn hiểu được mối nguy hiểm,
nhưng vì chạy theo lợi nhuận họ sẵn sàng đưa trẻ
thơ của chúng ta vào vòng rủi ro. -
Gary Davis, Tổng giám đốc Điều hành đã về hưu.
Nếu
Trung Quốc tiếp tục giao cho chúng ta thật nhiều
hàng hóa nguy hiểm và độc hại như vậy, tại sao
các nhà phân phối Hoa Kỳ như Foreign Tire Sales,
Simplicity, và Walmart lại không gia tăng các biện pháp
đề phòng trước khi bán ra cho công chúng vốn không
biết các nguy cơ và đầy lòng tin tưởng? Đó là
một câu hỏi rất hay, nhất là bởi vì nhiều trong
số các công ty Hoa Kỳ đã bị dính líu vào nhiều
vụ bê bối thu hồi sản phẩm khác nhau – từ
Burger King và Coca-Cola tới Mattel, Walmart, và Warner
Bros. – đều là các công có thương hiệu quý giá
cần phải bảo vệ.
Như
chúng ta đã thấy các công ty khác nhau - từ một cửa
hiệu bé tí bán lẻ bánh xe nước ngoài đến công
ty khổng lồ Walmart – đã giải quyết các vụ khủng
hoảng phẩm chất sản phẩm Trung Quốc ra sao, nên
câu trả lời cho câu hỏi này không làm cho chúng ta
yên tâm chút nào. Nó cho thấy rằng phản ứng tức
thời của rất nhiều công ty Hoa Kỳ đơn giản chỉ
là bưng bít cho nhau – hơn là thú nhận lỗi lầm
của chính họ và tăng cường thêm nỗ lực để
kiểm soát đống hàng hóa rác rưởi Trung Quốc mà
họ cung cấp. Sự thực là như vậy – và bởi vì
tất cả năm tuyến phòng thủ chống lại Cái chết
bởi đống hàng hóa rác rưởi Trung Quốc đã tan vỡ
- nên chúng ta hiện nay cần phải tự mình giải
quyết lấy các vấn đề. Chúng tôi sẽ chỉ cho bạn
một cách chính xác làm thế nào để thực hiện
điều đó trong chương cuối của cuốn sách này.
Nhưng trong khi chờ đợi, chúng ta phải hiểu được
rằng chúng ta không thể thay đổi thói quen mua và
tiêu dùng của chúng ta cho đến khi chúng ta hoàn toàn
hiểu rõ nguyên lý căn bản này:
Các
sản phẩm Trung Quốc có vẻ “rẻ” lại thực sự
là đắt hơn nhiều các hàng thay thế không phải là
hàng Trung Quốc, sau khi bạn tính đến cả các rủi
ro về thương vong và thêm vào tiền mua hàng bản
chiết tính mọi chi phí khác nhau về pháp lý, quy
định, cũng như phí tổn ảnh hưởng tới người
đóng thuế mà các sai hỏng của sản phẩm Trung Quốc
gây ra.
Như
vậy điều đầu tiên tất cả chúng ta cần làm khi
chúng ta đi mua sắm là phải xét kỹ lưỡng mọi
nhãn mác. Nếu đó là “Made in China”, hãy bỏ nó
xuống, trừ khi bạn tuyệt đối và rất cần nó và
không thể tìm được một món thay thế hợp lý. Và
nếu bạn tuyệt đối phải có sản phẩm đó, hãy
có những biện pháp đề phòng thích hợp.
Chương
4
Cái
chết của nền sản xuất của Hoa Kỳ:
Tại
sao hàng Mỹ không còn ‘ăn khách’ (*) nữa? |
|
Trung
Quốc đã trở thành một thế lực tài chính và
thương mại trọng yếu. Nhưng, họ không hành xử
như các nền kinh tế lớn khác. Thay vào đó, Trung
Quốc đi theo chính sách con buôn, cố giữ thặng dư
thương mại ở một mức cao giả tạo. Trong nền
kinh tế thế giới bị đình trệ như hôm nay, chính
sách này nói thẳng thừng là “mánh lới triệt hạ
đối thủ”.
-Paul
Krugman, Kinh tế gia đoạt giải Nobel Kinh tế năm
2008.
Trong
thập niên vừa qua, cưỡi chễm chệ trên con ngựa
thành Troy của tự do mậu dịch, một Trung Quốc phá
giá và ép giá đã đánh cắp hàng triệu việc làm
trong lãnh vực sản xuất ngay trước mũi chúng ta.
Nếu giữ lại được số việc làm này thì tỷ lệ
thất nghiệp của Hoa Kỳ sẽ thấp hơn 5% thay vì tới
gần 10% như hiện nay, ngân sách chính phủ Hoa Kỳ sẽ
cân bằng, và đất nước chúng ta có thể có một
tương lai tươi sáng hơn. Câu hỏi hiển nhiên là:
Tại sao chúng ta, ở vị thế một quốc gia, lại quá
thụ động khi đối diện với một trong những vụ
ăn cướp vĩ đại nhất của lịch sử kinh tế thế
giới: đó là vụ Trung Quốc cướp đi nền tảng sản
xuất Hoa Kỳ?
Chắc
có người nói: "Ô, đâu có phải vậy! Trung Quốc
đang giành lấy việc làm của người Mỹ một cách
chính đáng bằng cách sử dụng lực lượng lao động
rẻ tiền và có kỷ luật đấy chứ". Đó cũng
chính là những luận điệu được rêu rao bởi các
người biện hộ cho Trung Quốc, những kẻ cố tình
phủ nhận các thủ đoạn thương mại bất chính của
Trung quốc.
Thật
ra, nếu nghiên cứu kỹ về những nguồn lực thực
sự tạo lợi thế cạnh tranh của Trung Quốc, bạn
sẽ thấy rất rõ ràng rằng hơn một nửa lợi thế
này đến từ một ma trận phức tạp gồm tám thủ
đoạn thương mại bất chính, những thủ đoạn này
đều đã bị cấm triệt để bởi những quy chế
thông thường của tự do mậu dịch. “Tám Vũ khí
Hủy diệt Việc làm" cao siêu này gồm có:
1.
Mạng lưới tinh vi về trợ cấp xuất cảng bất hợp
pháp.
2.
Tiền Trung quốc được thao túng một cách tinh ranh
và định giá thấp một cách trơ trẽn.
3.
Giả mạo trắng trợn, chiếm đoạt và ăn cắp công
khai kho tàng sở hữu trí tuệ của Hoa Kỳ.
4.
Quyết định thiển cận không tưởng tượng nổi
của Đảng Cộng sản Trung Quốc sẵn sàng đánh đổi
việc hủy hoại môi trường để bớt vài xu trong
chi phí sản xuất.
5.
Các tiêu chuẩn an toàn lao động và bảo vệ sức
khỏe cho công nhân cực kỳ lỏng lẻo, so với tiêu
chuẩn quốc tế quá thấp đến nỗi nám phổi, tàn
phế chân tay, và vô vàn các bệnh ung thư không chỉ
là các rủi ro nghề nghiệp có thể có mà là điều
hầu như chắc chắn sẽ xẩy ra.
6.
Giá biểu thuế quan không chính đáng, hạn ngạch và
những quy định khắt khe đối với xuất cảng các
nguyên liệu thô quan trọng từ A tới Z - từ antimony
tới zinc – được dùng làm các thủ đoạn chiến
lược nhằm khống chế ngành công nghiệp nặng và
luyện kim của cả thế giới.
7.
Chính sách phá giá và các thủ đoạn tung hàng tràn
ngập thị trường nhằm loại các đối thủ nước
ngoài ra khỏi những thị trường tài nguyên trọng
yếu, sau đó bóc lột người tiêu dùng bằng giá độc
quyền.
8.
"Vạn Lý Trường Thành Bảo hộ" mà Trung
Quốc khoác lác khoe khoang đã không cho các đối thủ
nước ngoài thiết lập cơ sở làm ăn trên đất
Trung Quốc.
Đừng
tưởng lầm nữa. Đây chính là những vũ khí kinh tế
thực sự với hỏa lực đáng kể. Trận pháo kích
đồng loạt bằng những vũ khí này vào nền sản
xuất của Hoa Kỳ đã khiến cho hàng ngàn công xưởng
phải đóng cửa và biến hàng triệu công nhân Hoa Kỳ
thành những ‘tổn thất ngoài dự kiến’ - tất cả
đều diễn ra dưới chiêu bài bịp bợm là "tự
do mậu dịch".
Tại
sao chẳng có cái gì "tự do" khi nói về tự
do mậu dịch với Trung Quốc
Nếu
muốn hiểu rõ những điều đi ngược với ‘tự do
mậu dịch’, thì bạn hãy đọc bất kỳ cuốn sách
kinh tế nào mà bọn trẻ đang sử dụng trong các đại
học ngày nay. Có lẽ bạn sẽ bị đầu choáng mắt
hoa và lộn ruột lên, bởi vì nội dung của những
cuốn sách giáo khoa này quá khác biệt với thực tế
của đấu trường thương mại toàn cầu. Điều này
cũng chẳng khác gì đem tư tưởng [đấu tranh bất
bạo động] của Gandhi làm tài liệu giảng dậy
trong các khóa học về chiến lược quân sự thay thế
cho binh thư của các lý thuyết gia quân sự như
Clausewitz và Tôn Tử.
Thực
vậy, mặc dù có vô vàn bằng chứng trái ngược,
những cuốn giáo khoa này vẫn tiếp tục ca tụng
tính ưu việt của tự do mậu dịch, và cái mà người
ta gọi là "lợi ích của mậu dịch" mà tất
cả chúng ta đáng lẽ phải được hưởng. Nhưng
dưới đây là những gì mà tài liệu tuyên truyền
đó đã vô tình không nhận ra được: tuy tự do mậu
dịch rất hay trên lý thuyết, nhưng nó lại hầu như
không có trong thực tế. Những điều kiện để có
được tự do mậu dịch như thế không có trên trái
Đất này, cũng chẳng khác gì những giả định về
điều kiện chân không và tình trạng không có ma sát
trong các sách giáo khoa vật lý bậc trung học.
Trong
hồ sơ tố tụng Trung Quốc đối với Hoa Kỳ, cái
thuyết tự do mậu dịch đầy sức cám dỗ này giống
như cuộc hôn nhân: nó sẽ chẳng đi đến đâu nếu
nước này bội ước nước kia. Thật vậy, khi mà
Trung Quốc thi hành một cách có hệ thống tám thủ
đoạn thương mại bất chính được mô tả ở
chương này thì trò chơi "đôi bên cùng có lợi"
mà trong đó cả hai nước đều giả định là sẽ
cùng thắng, sẽ nhanh chóng biến thành trò chơi “kẻ
thắng người thua" trong đó có một kẻ thắng
lớn, còn người kia thì thua đậm. Chính vì vậy,
"tự do mậu dịch" giữa con Rồng và chú
Sam, rút cục đã trở thành khẩu hiệu mật với ý
nghĩa "Hãy khai tử nền sản xuất của Hoa Kỳ".
Nếu
người Trung Quốc xây dựng nhà máy, việc làm sẽ
không đến nước Hoa Kỳ !
Tại
sao chúng ta lại quan tâm tới sự suy vong nền sản
xuất của Hoa Kỳ? Phải chăng chúng ta đã từng nghe
các học giả như Thomas Friedman trong cuốn Thế
giới phẳng
phán rằng tương lai phồn thịnh của Hoa Kỳ dựa
vào việc phát triển nhanh chóng việc làm trong lãnh
vực dịch vụ? Phải chăng những cái đầu biết nói
như Fareed Zakaria của tờ Newsweek
và thậm chí cả James Fallows của tờ Altantic
luôn luôn nhắc đi nhắc lại rằng sự chuyển dịch
việc làm trong lãnh vực sản xuất từ Hoa Kỳ và Âu
châu tới các nước có thu nhập thấp như Trung Quốc
và Ấn Độ là vấn đề không thể tránh được,
cũng như thủy triều lên rồi xuống và mặt trời
mọc rồi lặn?
Vâng,
tất nhiên chúng ta đã bị ép buộc phải nghe cái
luận điệu ngụy trí thức vô giá trị này. Nhưng -
xin lỗi phải dùng từ ngữ của chính các nhà báo
như Fallows, Friedman, và Zakaria - quí vị đều sai lầm
... “bằng phẳng” như nhau cả. Những chuyên gia
“tiên đoán trật lất” này, cùng với những người
có cùng luận điệu, đều không nắm vững một
trong những nguyên tắc căn bản nhất của kinh tế
học:
Công
nhân Hoa Kỳ có thể cạnh tranh với công nhân ở các
nước có thu nhập thấp ở bất kỳ nơi nào trên
thế giới, miễn là họ phải hiệu quả hơn - và
sân chơi tự do mậu dịch phải bằng phẳng!
Đây
chính là lợi thế cạnh tranh của công nhân Hoa Kỳ:
sử dụng máy móc và kỹ thuật cao cấp hơn, và áp
dụng các quy trình sáng tạo nhằm gia tăng năng suất
lao động. Qua việc đạt năng suất lao động cao
nhất trên thế giới, các công nhân áo xanh của nền
sản xuất Hoa Kỳ đã luôn luôn được trả lương
khá, và vì thế họ có đủ khả năng tài chánh để
thực hiện giấc
mơ Hoa Kỳ
(**) của họ.
Thay
vào đó, giấc mơ của công nhân áo xanh Hoa Kỳ có
được căn nhà có hàng rào trắng và con cái được
học hành ở đại học, đã biến thành huyễn tượng
kinh hoàng, bởi vì cho dù công nhân Hoa Kỳ hôm nay
làm việc hiệu quả thế nào đi nữa, họ không thể
chống lại được “Tám Vũ khí Hủy diệt Việc
làm” của Trung Quốc. Thực vậy, nếu nền công
nghiệp sản xuất của Hoa Kỳ trước kia đã chiếm
25% tổng sản lượng nội địa (GDP - gross domestic
product), thì ngày nay con số này đã rút xuống chỉ
còn 10%.
Không
phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, trong khi
Trung Quốc đã khoét rỗng nền sản xuất của Hoa Kỳ
một cách hệ thống, thì nền kinh tế của Trung Quốc
đã tăng trưởng với một tỷ lệ kinh ngạc là 10%
mỗi năm. Ngược lại, trong thập niên vừa qua, mức
tăng trưởng của nền kinh tế Hoa Kỳ chỉ là 2.4%.
Cần phải lưu ý rằng, con số tăng trưởng nhỏ
nhoi 2.4% này trong những năm 2000 thấp hơn 25% so với
tỷ lệ tăng trưởng 3.2% của giai đoạn từ năm
1946 tới năm 1999.
“Hãy
khoan, hãy khoan!”, bạn nói “Giảm có 0.8% về tỷ
lệ tăng trưởng GDP hàng năm trong suốt thập niên
vừa qua có gì là đáng kể”. Nhưng vấn đề là
con số khác biệt 0.8% ở đây tương đương với
việc không tạo ra được khoảng 1 triệu việc làm
mới mỗi năm, và tích lũy lại, thì chúng ta đã mất
hơn 10 triệu việc làm trong thập niên vừa qua. Không
phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, con số này
gần như chính là con số việc làm mà chúng ta cần
phải có để có thể nâng nền kinh tế Hoa Kỳ trở
lại mức toàn dụng và tận dụng tiềm năng sản
xuất.
Nếu
chúng ta xây dựng cơ sở sản xuất, việc làm sẽ
đến với Hoa Kỳ!
Và
đây là viễn cảnh lớn hơn về nền sản xuất Hoa
Kỳ: không chỉ những con số thô thiển về hơn 10
triệu việc làm đã bị mất trong thập niên vừa
qua khiến cho nền tảng sản xuất trở nên cực kỳ
quan trọng đối với kinh tế Hoa Kỳ. Một nền sản
xuất mạnh và sống động luôn đóng một vai trò
tối quan trọng đối với sự phồn vinh lâu dài của
quốc gia, bởi vì ít nhất 4 lý do được trình bày
sau đây.
Trước
hết, các việc làm trong ngành sản xuất tạo ra
nhiều việc làm khác hơn là trong ngành dịch vụ.
Thực vậy, cứ mỗi 1 đô-la của sản phẩm từ
ngành sản xuất, Hoa Kỳ tạo ra khoảng 1.5 đô-la
trong các dịch vụ liên quan như xây dựng, tài chính,
bán lẻ, và vận tải.
Các
việc làm về sản xuất cũng được trả lương
trung bình cao hơn, nhất là đối với những người
lao động phái nữ và dân thiểu số. Mãi lực cao
hơn của lực lượng nhân công áo xanh này là yếu
tố kích hoạt cốt yếu đối với các ngành khác
trong nền kinh tế. Không phải tự nhiên khi các nhà
máy đóng cửa thì các trung tâm mua sắm, phòng mạch
bác sĩ, khách sạn, và nhà hàng trong vùng lân cận
nhà máy cũng chết theo. Khi các nhà máy dời đi nơi
khác, số thu từ thuế của thành phố và chính quyền
tiểu bang cũng giảm đi, và việc làm cũng như dịch
vụ của chính phủ sẽ phải cắt giảm.
Quan
trọng hơn hết, một nền sản xuất mạnh mẽ sẽ
là mấu chốt để kích thích các cải tiến kỹ
thuật mà Hoa Kỳ cần phải có để đẩy mạnh nền
kinh tế về lâu dài. Điều khiến cho ta phải thận
trọng suy nghĩ là các nhà máy sản xuất có cơ sở
ở Hoa Kỳ đóng góp hai phần ba về tổng số tài
trợ về nghiên cứu và phát triển tư nhân của Hoa
Kỳ. Khi những cơ sở sản xuất này chuyển sang
Trung Quốc, thì các chi tiêu về nghiên cứu và phát
triển cũng đi theo và kéo đi luôn cả năng lực sáng
kiến của Hoa Kỳ.
Lý
do thứ tư, và cũng là lý do cuối cùng để Hoa Kỳ
cần phải kiên quyết bảo vệ nền sản xuất là
mối tương quan hệ trọng giữa các nhà sản xuất
sản phẩm sau cùng lớn như các tập đoàn Boeing,
Caterpillar và General Motors, với tất cả công ty liên
quan trong dây chuyền cung cấp vật liệu sản xuất
của Hoa Kỳ. Giữ các nhà máy của các ngành công
nghiệp nặng này ở lại Hoa Kỳ là điều quan trọng
bởi vì có rất nhiều các công ty lớn nhỏ phụ
thuộc vào sự hoạt động của các nhà công ty này.
Ví
dụ, những công ty lớn như AC Delco có văn phòng
trung ương ở Kokomo và Cummins Engines có văn phòng
trung ương tại Columbus, tiểu bang Indiana, đã cung cấp
các sản phẩm như phụ tùng xe hơi và động cơ
diesel cho các hãng như GM và Ford. Hàng ngàn các công
ty vừa và nhỏ ở hàng trăm các thành phố Hoa Kỳ
sản xuất và cung cấp các cấu kiện đa dụng như
các ống cao áp và dây cáp điện, cũng như sản xuất
sản phẩm theo đơn đặt hàng như phụ tùng nhựa
đúc bằng máy phun và các bộ phận tiện/khoan chính
xác.
Vấn
đề ở đây là: khi các hãng như Dupont hoặc
Medtronic chuyển các quy trình sản xuất sản phẩm
của họ sang Trung Quốc, họ cũng mang theo tất cả
chuỗi cung ứng. Điều này không chỉ vì lý do tiếp
vận mà cũng vì chính sách bảo hộ: Trung Quốc bắt
buộc các hãng Tây phương khi thành lập nhà máy tại
Trung Quốc phải sử dụng nguồn lực địa phương
và do đó giúp phát triển các nhà cung cấp nội địa.
Thực vậy, khi phỏng vấn một quản đốc nhà máy
cung cấp các linh kiện lắp ráp máy bay của Hoa Kỳ
ở Thượng Hải, chính chúng tôi thấy công ty này
thường xuyên mang các kỹ sư Hoa Kỳ tới Trung Quốc
để đào tạo các nhà cung cấp yếu kém của họ
nhằm cải tiến chất lượng cho các cấu kiện tinh
vi. Qua quá trình này, công ty bản địa có thể thay
thế các đối tác Hoa Kỳ mà họ đã cùng làm việc
trong nhiều năm qua.
Và
từ lúc này trở đi, bất cứ khi nào bạn nhìn thấy
một công ty lớn như 3M, Cisco, hoặc Ford thiết lập
các nhà máy khác ở Trung Quốc, xin hãy hiểu rằng,
sự kiện mất việc làm không chỉ xảy ra đối với
các công ty ra đi. Đúng hơn, trong cái phiên bản “ảnh
hưởng dây chuyền kinh tế” (***) của thế kỷ 21
này, thì những mất mát khởi đầu về việc làm sẽ
lan truyền tới các cơ sở khác của nền sản xuất
ở Bắc Mỹ, sau đó sẽ đến tất cả lãnh vực
dịch vụ. Cuối cùng, các trung tâm đầu mối sản
xuất một thời sống động như Warren, tiểu bang
Ohio (Hoa Kỳ), và Windsor, tỉnh bang Ontario (Canada), sẽ
trở thành những thị trấn ma.
Bởi
những lý do này, rõ ràng là việc làm trong lãnh vực
sản xuất đóng một vai trò tối quan trọng đối
với sự thịnh vượng lâu dài không chỉ ở Hoa Kỳ
mà còn ở châu Âu và Nhật Bản, cũng như các nơi
khác trên thế giới. Hiển nhiên, những nhát búa của
Trung Quốc giáng vào nền sản xuất của Hoa Kỳ đã
làm cho Hoa Kỳ gặp khó khăn trong việc tạo ra đủ
số việc làm để giảm tỷ lệ thất nghiệp một
cách đáng kể. Mặc dù Tòa Bạch Ốc đã cố gắng
hết sức sử dụng những biện pháp lớn lao nhằm
kích thích nền kinh tế sa sút, nhưng dòng người
thất nghiệp vẫn tiếp tục kéo dài tới hàng dặm.
Thưa Tổng thống, ông có nghĩ tại sao lại như vậy
không?
Xin
thưa, một lý do là: nỗ lực khởi động nền kinh
tế mà không có một nền sản xuất sống động,
thì cũng như cố gắng khởi động một xe hơi không
có bu-gi (đánh lửa) hay bánh xe bị trơn trượt không
bám vào mặt đường. Xe không thể chạy được.
Buồn hơn là, một phần lớn số tiền kích thích
này thất thoát ra khỏi nền kinh tế của chúng ta,
và số tiền này lại kích thích kinh tế của Quảng
Châu và Thượng Hải, chứ không kích thích kinh tế
của Gary và Pittsburgh. Trên thực tế thì viễn kiến
sai lầm của thuyết kinh tế Keynes về chu kỳ chi
tiêu tích cực không thể thực hiện được trong
tình trạng hiện nay tại Mỹ, khi mà có quá nhiều
những thứ chúng ta mua không được sản xuất trên
đất Mỹ, và đối tác gây thâm hụt thương mại
lớn nhất cho chúng ta lại không bao giờ đáp ứng
lại.
Trung
Quốc đã lừa dối như thế nào? Ta hãy phanh phui
những thủ đoạn của họ
Bây
giờ chúng ta hãy phân tích chi tiết hơn về tám Vũ
khí Hủy diệt Việc làm của Trung Quốc. Trước hết
là mạng lưới tinh vi về trợ cấp xuất cảng bất
chính.
#
1: Trợ cấp xuất cảng: “Mũi dao đâm ngay vào tim”
Nhìn
bề ngoài thì thuật ngữ trợ cấp xuất cảng có vẻ
như là vô thưởng vô phạt. Để hiểu vì sao những
việc trợ cấp như thế này lại được coi như là
“mũi dao đâm thẳng vào tim” của bất kỳ thương
nghiệp Hoa Kỳ nào, hãy giả sử rằng bạn là một
thương gia Trung Quốc bắt đầu mở một công ty để
đối đầu với các nhà máy đang cạnh tranh với
mình ở các tiểu bang Ohio, Pennsylvania, Michigan, hay
Tennessee.
Để
giúp bạn thành lập xí nghiệp, chính phủ Trung Quốc
sẽ cấp cho bạn đất đai miễn phí, năng lượng
được trợ giá, và hầu như không có một giới hạn
nào đối với việc vay mượn các khoản tài chính
lãi suất thấp hoặc không có lãi suất. Và nếu bạn
gặp rắc rối, bạn sẽ không phải trả lại các
khoản vay này cho chính phủ, bởi chính phủ sở hữu
và điều khiển toàn bộ các ngân hàng, thêm vào đó
Đảng Cộng sản Trung Quốc có quyền bổ nhiệm lãnh
đạo của các ngân hàng.
Bây
giờ, khi bạn sẵn sàng xuất cảng sản phẩm vào
Hoa Kỳ, bạn sẽ được hưởng một khoản trợ cấp
trực tiếp cho mỗi sản phẩm mà bạn bán được -
ở mức từ 10 tới 20 xu cho mỗi đô-la thu được từ
hàng xuất cảng. Thêm vào đó, khi có lợi nhuận,
bạn sẽ có đủ điều kiện hợp pháp để được
giảm những khoản lớn về thuế thu nhập và thuế
bất động sản.
Thêm
vào đó, xí nghiệp Trung Quốc của bạn sẽ không
phải lo lắng gì cả về việc đối thủ cạnh tranh
người Mỹ sẽ tấn công bạn ngay tại sân sau của
bạn. Nếu những thương nghiệp nước ngoài muốn
bán sản phẩm trên thị trường của bạn, họ sẽ
bị buộc phải thiết lập các xưởng trên đất
Trung Quốc, và hiển nhiên là họ sẽ trở thành đối
tác thứ yếu của bạn.
Bây
giờ khi bạn thấy những gì mà các doanh nghiệp Hoa
Kỳ đang phải đối phó với việc trợ cấp xuất
cảng của Trung Quốc, thì bạn có hiểu rõ hơn tại
sao một công ty sản xuất tủ lạnh ở Madison, tiểu
bang Wisconsin, một công ty sản xuất máy giặt ở
Clyde, tiểu bang Ohio, hay một công ty sản xuất máy
xay sinh tố ở Orem, tiểu bang Utah, lại gặp khó khăn
như vậy để cạnh tranh với con Rồng Trung Quốc
không? Và việc một nhà máy sản xuất máy hút bụi
ở Palm City, tiểu bang Florida, một công ty sản xuất
các công cụ thủ công cầm tay ở New Britain, tiểu
bang Connecticut, hay một công ty sản xuất nôi trẻ em
ở Barington, tiểu bang New Jersey, đã phải vất vả
cực nhọc như thế nào để đứng vững giữa sóng
gió trên đại dương toàn cầu của chủ nghĩa con
buôn Trung Quốc, thì đối với bạn điều này có dễ
hiểu không?
Thực
vậy, việc duy trì liên tục một hệ thống mạng
lưới tinh vi về trợ cấp xuất cảng bất chính là
một trong những bội ước lớn nhất trong lịch sử
kinh tế thế giới. Đó là vì khi Trung Quốc tham gia
Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2001, họ đã
hứa sẽ nhanh chóng loại trừ tất cả các trợ cấp
bất hợp pháp – cùng với việc loại bỏ mọi thủ
đoạn thương mại bất chính.
Vâng,
thưa nước Trung Quốc - Cộng sản, Hoa Kỳ - Dân chủ
vẫn còn đợi quý quốc giữ lời hứa của mình về
tự do mậu dịch. Và, trong khi chúng tôi đang chờ
đang đợi, thì các khoản trợ cấp xuất cảng bất
hợp pháp khổng lồ của quý vị vẫn tiếp tục
giáng đòn mạnh và công phá ác liệt vào các ngành
công nghiệp trọng yếu nhất ở Bắc Mỹ, đó là
thép, hóa dầu, giấy, dệt may, bán dẫn, ván ép và
máy công cụ. Cái danh sách này cũng dài như những
dòng người thất nghiệp ở các thành phố Stockton,
tiểu bang California; Las Vegas, tiểu bang Nevada; Monroe,
tiểu bang Michigan; và Rockford, tiểu bang Illinois.
#2:
“Ván bài” mới - Chính sách thao túng tiền tệ của
Trung Quốc
Trung
Quốc đã can thiệp ở một phạm vi rất lớn nhằm
giữ tỷ giá ngoại tệ thấp… Đây chắc chắn là
hành động thao túng tiền tệ. Nó cũng như chính
sách bảo hộ, và tương tự như việc áp dụng biểu
thuế quan thống nhất hay trợ cấp xuất cảng.
-Martin
Wolf, Financial
Times
Vấn
đề thao túng tiền tệ của Trung Quốc rất quan
trọng để nhận biết về những thiệt hại xảy ra
đối với nền tảng sản xuất Hoa Kỳ. Do đó chúng
ta sẽ dành cả chương tới để nói đề tài này.
Tuy nhiên, theo các số liệu ước tính đáng tin cậy,
chúng ta có thể nói rằng, đồng yuan (đồng Nguyên,
còn gọi là Renminbi, nhân dân tệ) đã được giữ ở
một giá thấp một cách lố bịch ở mức khoảng
40%.
Cụ
thể hơn, điều này có nghĩa là cứ mỗi đô-la của
sản phẩm mà Trung Quốc bán vào thị trường Hoa Kỳ,
thì các nhà xuất cảng Trung Quốc chỉ phải bỏ ra
một khoản tương đương là 60 xu. Đây là một sự
trợ cấp khổng lồ!
Đồng
thời, cứ mỗi đô-la của sản phẩm mà thương
nghiệp Hoa Kỳ nỗ lực bán vào Trung Quốc, họ phải
tính giá cao đáng kể hơn một đô-la. Ngoài mức
thuế quan gián tiếp này, doanh nghiệp sản xuất Hoa
Kỳ khi xuất cảng sang Trung Quốc sẽ phải chịu
thêm một mức thuế trực tiếp là 30%.
Khi
thấy rằng thao túng tiền tệ của Trung Quốc có tác
dụng tương đương như cả trợ cấp và thuế quan,
ta mới hiểu rõ hơn một phần nào tại sao nhà sản
xuất dụng cụ cắt tiện ở South Easton, tiểu bang
Massachusetts hay công ty sản xuất fasteners (như đinh,
con ốc, dây kim loại để gắn liển các bộ phận
của máy) ở Corry, tiểu bang Pennsylvania, đã phải
khó khăn như thế nào để cạnh tranh với các công
ty tương tự của Trung Quốc ở Thâm Quyến, Quảng
Châu, và Thành Đô.
#3:
Họ nghĩ rằng lấy mà không bị bắt thì không phải
là ăn cắp
Thế
thì giờ đây những hậu quả từ các chiêu thức
làm giả, ăn cắp bản quyền và vi phạm quyền sở
hữu trí tuệ tràn lan của Trung Quốc đối với nền
tảng sản xuất của Hoa Kỳ là gì? Xin thưa, dưới
đây là bằng chứng tội phạm.
Mỗi
khi Trung Quốc đánh cắp kỹ thuật, thiết kế và
quy trình sản xuất từ chú Sam tốt bụng, họ hút
đi một ít máu từ những mạch máu của nền sản
xuất của chúng ta. Đó là vì, khi một công ty Hoa Kỳ
muốn tìm ra ra một loại thuốc điều trị ung thư,
sản xuất ra các xe hơi tiết kiệm nhiên liệu, hay
phát triển các tấm pin năng lượng mặt trời hiệu
quả hơn, thì quá trình tìm tòi này rất tốn kém và
mất nhiều thời giờ. Nếu kẻ cướp hay kẻ lừa
đảo Trung Quốc chỉ đơn thuần ăn cắp những thành
quả từ các phát minh như thế - mà không đề cập
tới hay tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ - thì
điều này thành một lợi thế về chi phí sản xuất
thực cho Trung Quốc.
Để
nhận biết tầm mức của lợi thế mà các doanh
nghiệp sản xuất Trung Quốc có được nhờ ăn cắp
bản quyền, chúng ta nên biết rằng các công ty dược
phẩm như Merck và Pfizer thường dành tới 20% mức
doanh thu cho việc nghiên cứu và phát triển sản
phẩm, trong khi các công ty kỹ thuật như Intel và
Microsoft dành 15%, và các công ty sản xuất xe hơi như
General Motors và Ford thì dành ra 5%. Như vậy, khi các
đối thủ cạnh tranh Trung Quốc sản xuất sản phẩm
tương tự của Pfizer như Viagra, mò mẫm học lóm
thiết kế mạch bán dẫn của Intel, sao chép phi pháp
bản quyền hệ điều hành của Microsoft, hay thâm
nhập vào hệ thống máy điện toán để ăn trộm
thiết kế về loại xe hơi hybrid (vừa chạy bằng
xăng dầu, vừa chạy bằng điện) của General Motors,
bạn thử đoán xem điều gì sẽ xảy ra? Đúng vậy,
kẻ cướp Trung Quốc có thể giảm giá một cách
đáng kể cho sản phẩm cạnh tranh của hắn ta, bởi
vì kẻ ăn cắp tài sản trí tuệ này không phải
(chi tiêu và do đó) lấy lại bất kỳ một chí phí
nào liên quan tới nghiên cứu và phát triển.
Và
xin bạn cần biết điều này: Kẻ cướp Trung Quốc
không bao giờ bị lương tâm cắn rứt – từ một
người buôn bán nhỏ trên các phố ở Thượng Hải
mời chào đĩa DVD lậu của bộ phim Harry Potter với
giá 80 xu, cho tới chức sắc cao cấp của công ty sản
xuất xe hơi cỡ bự như Chery Automotive Company, đã ăn
cắp cả tên và thiết kế từ công ty mang nhãn hiệu
Chevy của Hoa Kỳ. Sở dĩ họ không bị lương tâm
cắn rứt là vì, trên một tỷ người Trung Quốc
được sinh ra và lớn lên ở một môi trường chân
không về luân thường đạo lý trong đó quyền sở
hữu tài sản bị chà đạp, và nhà nước làm chủ
tất cả. Sự lệch lạc đạo đức và luân lý này
bắt nguồn ngay từ Chủ tịch Mao và tiếp diễn qua
cuộc Cách mạng Văn hóa điên khùng. Chính sự lệch
lạc phi luân lý này đã tạo ra một thái độ gọi
là “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”.
Trong khi thái độ coi thường việc vi phạm quyền sở
hữu trí tuệ của Trung Quốc được các nước láng
giềng châu Á biết rõ, thì các nước Tây phương
lại chẳng biết tí gì về nguồn gốc văn hóa và
chính trị dẫn tới tình trạng phi đạo đức này
của Trung Cộng.
#4:
Hủy hoại môi trường Trung Quốc chỉ vì một vài
đồng bạc
Bây
giờ chúng ta quay sang vấn đề không thể chối cãi
được và thiển cận nhất trong những Vũ khí Hủy
diệt Việc làm của Trung Quốc. Đó là hành động
‘tự sát’ của chính phủ Trung Quốc sẵn sàng hủy
hoại môi trường để kiếm thêm một vài xu lợi
thế về chi phí sản xuất.
Mặc
dù có luật cứng rắn để bảo vệ môi trường
theo đúng sách vở và mặc dù luôn luôn rêu rao luận
điệu ‘môi trường xanh’ cho khách tiêu thụ Tây
phương, thực tế thì Đảng Cộng sản coi các lời
nói suông này chẳng có giá trị gì hơn chính hiến
pháp của họ trong đó quyền tự do ngôn luận và
tôn giáo đáng lẽ được bảo đảm. Như một chức
sắc cao cấp của một trong những nhà máy lớn nhất
Trung Quốc đã nói thẳng với một đồng nghiệp của
chúng tôi rằng: “Làm được việc là có thể được
thăng quan tiến chức – nhưng chẳng ai thèm để ý
đến vấn đề môi trường đâu”.
Để
biết về việc hủy hoại môi trường tạo lợi thế
cho Trung Quốc như thế nào ta hãy xem trường hợp
sau đây. Một công ty hóa chất Hoa Kỳ ở Cincinnati,
tiểu bang Ohio, cần phải đặt một thiết bị kiểm
soát ô nhiễm phức tạp để ngăn chặn các chất
thải hóa học chảy vào sông Ohio. Ngược lại, đối
thủ cạnh tranh Trung Quốc ở Trùng Khánh chỉ việc
sử dụng ngay sông Dương Tử như một cái nhà vệ
sinh để thải chất độc nào mà họ muốn bỏ đi.
Như vậy thì công ty nào sẽ chiếm thị trường hóa
chất quốc tế lớn hơn?
Hay
giả sử một nhà máy sản xuất giấy của Hoa Kỳ ở
Waterford, tiểu bang New York, cần phải lắp đặt nồi
hơi ít xả khí thải và đắt tiền ở phân xưởng
hơi nước, trong khi đó đối thủ Trung Quốc không
làm gì cả. Điều này dẫn tới giấy sản xuất từ
Trung Quốc thì nhiều hơn và việc làm tại Hoa Kỳ
thì ít hơn và số người dân Trung Quốc bị ngạt
trong bầu không khí của chính mình cũng nhiều hơn.
Thực
vậy, cái mũi nhọn cạnh tranh “ô nhiễm càng nhiều,
giá càng rẻ” của Trung Quốc đâm sâu vào các nhà
máy trong lãnh vực công nghiệp sản xuất ở Hoa Kỳ,
bởi những nhà máy tại Hoa kỳ luôn phải đối mặt
với những chí phí cao nhất để tuân theo các quy
định về môi trường. Các công ty như Dow Chemical và
U.S. Steel chi phí gần 10 lần cho việc bảo vệ môi
trường so với các đối thủ Trung Quốc như Sinopec
Oil và Bao Steel.
Việc
Trung Quốc hủy hoại môi trường để gia tăng và
đẩy mạnh xuất cảng được chứng minh rất rõ
bằng sự kiện hiển nhiên sau đây. Trong khoảng ba
thập niên ngắn ngủi để Trung Quốc nổi lên như
một công xưởng của thế giới, Trung Quốc cũng đã
được biết tới với hai nét nổi bật, đó là:
“quốc gia ô nhiễm nhất hành tinh” và “quốc gia
can dự nhiều nhất vào việc làm biến đổi khí
hậu”. Điều này không chỉ ảnh hưởng tới các
nhân công Hoa Kỳ, chính dân Trung Quốc cũng đã phải
trả một cái giá quá đắt dưới hình thức tỷ lệ
gia tăng khủng khiếp về bệnh ung thư, tim mạch,
bệnh về đường hô hấp và da liễu.
Hoàn
cảnh khốn khổ của loài động vật và thực vật
cũng là thước đo mức độ trầm trọng của vấn
đề ô nhiễm môi trường. Bất kỳ du khách đến
Trung Quốc nào để ý sẽ thấy rằng cả ở nông
thôn lẫn thành thị hầu như vắng bóng chim muông.
Xuân, hạ, thu, đông, mùa nào cũng vắng tiếng chim
ca: đó là phong cảnh độc hại của Trung Quốc.
#5:
Làm què quặt và giết hại nhân công lao động không
phải để vui mà để thêm nhiều lợi nhuận
Đầu
độc sông ngòi, và phá hoại bầu không khí của
chính mình để chiếm ưu thế cạnh tranh cũng chưa
đủ, Trung quốc lại còn muốn có ưu thế hơn nữa
bằng những hành động đâm chém, đánh đập, và
làm nám phổi cả nguồn nhân công lao động. Trong
những công xưởng nguy hiểm chết người của Trung
Quốc, phổi bị nhiễm bụi silic và suy hô hấp, cụt
chân tay, các bộ phận trong cơ thể bị ung thư, và
da bị ăn mòn bởi a-xít, không phải chỉ là những
rủi ro nghề nghiệp có thể xẩy ra. Đối với hàng
triệu công nhân Trung Quốc, tai nạn hầu như là điều
tất yếu. Trích đoạn dưới đây từ tờ The
New York Times,
ghi lại rất đầy đủ một sự thật kinh dị của
[nền công nghiệp như] Lò Sát sinh số 5 như sau:
Vĩnh
Khang (Yongkang) … ở phía Nam của Thượng Hải, là
thủ phủ chế tạo dụng cụ, máy móc của Trung
Quốc. Có 7,000 nhà máy gia công sắt thép … sản
xuất dụng cụ như các bản lề, nắp che bánh xe,
nồi niêu xoong chảo, máy khoan, cửa an toàn, thùng
đựng dụng cụ, bình thủy, máy cạo râu,ống nghe,
ổ cắm điện, quạt điện, và bất cứ sản phẩm
nào có sử dụng các chi tiết kim loại. Vĩnh Khang,
theo tiếng Trung Quốc còn có nghĩa là “Mãi mãi mạnh
khỏe”, nhưng lại được mệnh danh là “thủ phủ
chém chân tay” của Trung Quốc. Ngày nào cũng có ít
nhất một lần có người phải đưa vào cấp cứu ở
một trong hơn mười trung tâm y tế chuyên điều trị
các bệnh liên quan tới thương tích bàn tay, cánh tay
và ngón tay.
Thủ
phạm chính của nạn thịt rơi máu chảy này là
những quy định về an toàn lao động và sức khỏe
quá lỏng lẻo của Trung Quốc. Công nhân Trung Quốc
phải làm việc vất vả trong điều kiện rủi ro lớn
ở mọi ngành công nghiệp, từ vật liệu xây dựng,
hóa chất, và máy móc, tới ngành luyện kim, nhựa và
dệt may. Chỉ riêng các mỏ than tại Trung Quốc, hàng
năm có hàng ngàn công nhân thiệt mạng, trong khi đó
ở Hoa Kỳ số nạn nhân chưa tới 50 người mỗi
năm.
Đứng
trên quan điểm cạnh tranh quốc tế, sự thương vong
ở các cơ sở sản xuất đã góp phần tạo ra những
lợi thế cạnh tranh rùng rợn nhất mà Trung Quốc
lưu trữ trong kho vũ khí của họ. Cụm từ máu, mồ
hôi và nước mắt chưa bao giờ có một nghĩa đen
chính xác và đúng như vậy khi nói về các “xưởng
mồ hôi” và “xưởng máu” tại Trung Quốc.
#6:
Một quả bom hạt nhân về hạn chế xuất cảng
Thế
còn thứ Vũ khí Hủy diệt Việc làm thứ sáu mà
người ta gọi là “Hạn chế xuất cảng” là gì?
Để biết được vì sao Tổ chức Thương mại Thế
giới lại nghiêm cấm các hạn chế đó – và tại
sao những hạn chế về xuất cảng này lại được
xem như là một trái bom hạt nhân ném vào giữa nền
công nghiệp nặng của Hoa Kỳ - thì chỉ cần nhìn
vào một số nguyên liệu cụ thể mà Trung Quốc hạn
chế xuất cảng, bằng các hạn ngạch xuất cảng
chặt chẽ và thuế xuất cảng cao tới 70%.
Đứng
đầu danh sách về hạn chế xuất cảng là các
nguyên liệu công nghiệp căn bản như bauxite, than
cốc, fluorit, magnesium, mangan, silicon carbide, và kẽm.
Quặng bauxite dùng để lấy nhôm. Than cốc là nhiên
liệu trọng yếu và là chất khử trong quá trình nấu
chảy quặng sắt (luyện gang thép). Fluorit tối cần
thiết cho công nghệ sản xuất thép và nhôm.
Magnesium là kim loại kết cấu được sử dùng nhiều
thứ ba, chỉ sau sắt và nhôm; còn mangan thì được
sử dụng bởi các lò luyện thép để tạo ra loại
thép chống rỉ sét và chống ăn mòn. Silicon carbide,
thì được dùng để sản xuất các loại vật liệu
gốm dùng để làm các sản phẩm từ áo giáp chống
đạn tới các hệ thống thắng đĩa. Còn kẽm thì
sao? Nguyên liệu đa năng này được ứng dụng trong
hầu hết mọi lãnh vực, từ việc mạ thép, tới
đúc đồng thau và đồng thiếc, hay được dùng làm
chất tạo mầu cho các loại sơn, và làm chất xúc
tác khi sản xuất cao su.
Nói
cách khác, hầu như tất cả các nguyên liệu mà
Trung Quốc dự trữ thật nhiều hay hạn chế xuất
cảng đều là những nguyên liệu không thể thiếu
được trong ngành công nghiệp nặng và luyện kim của
thế giới. Dĩ nhiên, trong thị trường toàn cầu,
những hạn chế về xuất cảng của Trung Quốc đối
với các nguyên liệu sẽ làm chi phí sản xuất cao
hơn. Vì thế, đối với nhà máy thép của Hoa Kỳ ở
Gary, tiểu bang Indiana, công ty luyện nhôm của Canada
ở Lac Saint-Jean, tỉnh bang Québec, công ty kỹ thuật
khuôn đúc của Nhật ở Hiroshima, hay nhà máy sản
xuất kính của Đức ở Dusseldorf, thì hậu quả
không thể tránh được đó là tăng giá toàn cầu
các nguyên liệu,và làm giảm tư thế cạnh tranh so
với các đối thủ từ Trung Quốc.
Chi
phí sản xuất còn bị xiết chặt thêm một vòng
nữa. Đó là trong khi các công ty Hoa Kỳ và Tây
phương phải gánh chịu các chi phí sản xuất cao
hơn, thì các đối thủ cạnh tranh Trung Quốc của họ
lại được hưởng các đặc quyền và mức giá nội
địa có kiểm soát. Hai yếu tố này đã tạo thêm
một lợi thế áp đảo cho các công ty Trung Quốc về
chi phí sản xuất và giá cả đối với các đối
thủ cạnh tranh ngoại quốc.
Cũng
cần nhắc lại rằng, Tổ chức Thương mại Thế
giới đã nghiêm cấm mọi hình thức hạn chế xuất
cảng như thế chính vì nó tạo ra lợi thế cạnh
tranh bất chính trong ngành giao thương. Nhưng Trung
Quốc không thèm đếm xỉa tới điều này. Cả Hoa
Kỳ và Âu châu cho tới nay vẫn chưa làm bất cứ
cái gì đáng kể để bắt buộc Trung quốc thi hành
những quy định đó. Vì vậy, Trung Quốc bảo hộ
vẫn duy trì các hạn chế xuất cảng phi pháp như là
một công cụ để khống chế - đúng ra là bóp nghẹt
- tất cả các ngành công nghiệp nặng và luyện kim
trên thế giới.
#7:
Phá giá, bán đổ bán tháo và Tập đoàn con Rồng
toa rập để định giá đất hiếm
Hạn
chế xuất cảng của Trung Quốc mới chỉ là một
nửa câu chuyện. Còn nửa kia là hạn chế xuất cảng
nhiều loại vật liệu gọi là "đất hiếm".
Đất hiếm, với những cái tên lạ tai như cerium,
erbium, scandium, và terbium, là nguyên liệu có thế
mạnh “châu chấu đá xe” trong ngành sản xuất kỹ
thuật cao. Vì có các đặc tính thiết yếu về từ
tính và phát quang đặc biệt cũng như khả năng
truyền dẫn, tạo và tích trữ năng lượng, nên chỉ
một chút đất hiếm cũng có ảnh hưởng rất lớn
trong việc chế tạo nhiều loại sản phẩm kỹ thuật
cao.
Các
sản phẩm thông dụng hiện nay như cuộn dây truyền
âm thanh (voice coil) trong ổ cứng (hard drive) của
iPod, bình điện dùng trong chiếc xe hơi hybrid, hay các
tấm pin năng lượng mặt trời đều ít nhiều sử
dụng đất hiếm. Đất hiếm cũng được dùng trong
các bộ chuyển đổi xúc tác để lọc khí thải xe
hơi cho không khí được trong sạch, trong các máy
quang tuyến di động mà bác sĩ dùng để chẩn bệnh
nhanh chóng, trong nguồn laser dùng trong các ứng dụng
công nghiệp và khoa học, và trong các nam châm dùng
trong các hệ thống dẫn đường hiện đại cần có
trong các máy bay quân sự và thương mại.
Đất
hiếm quan trọng trong cuộc sống của chúng ta như
vậy nên thật là một điều đáng lo ngại khi biết
rằng Trung Quốc đang thao túng một cách hiệu quả
thị trường của nhiều loại đất hiếm. Điều làm
chúng ta kinh ngạc về sức mạnh thị trường của
Trung Quốc là dù chỉ có một phần ba trữ lượng
đất hiếm trên thế giới, nhưng hiện nay Trung Quốc
chiếm trên 90% sản lượng đất hiếm trên thế
giới.
Làm
sao mà Trung Quốc lại có thể tạo ra cái gọi là
"Cartel độc quyền đất hiếm" của chính
họ? Đó là vì Trung Quốc dùng các thủ đoạn phá
giá đi đôi với bán đổ bán tháo. Đây chính là
bài học lấy ra từ "Cẩm nang về tổ chức độc
quyền Cartel".
Bài
học này bắt đầu từ cách đây hơn một thập
niên. Đó là khi một số quan chức cao cấp của Đảng
Cộng sản Trung Quốc nhận ra được nguồn đất
hiếm dồi dào của họ và bắt đầu đổ hàng đống
tiền trợ cấp chính phủ vào ngành sản xuất đất
hiếm. Mục tiêu mà họ muốn là biến Cộng hòa Nhân
dân Trung Quốc thành một “Tập đoàn độc quyền
về đất hiếm” giống như OPEC (Tổ chức các Quốc
gia Xuất cảng Dầu hỏa).
Để
xây dựng và phát triển "Cartel độc quyền đất
hiếm", các công ty chính phủ khai thác khoáng sản
của Trung Quốc đã cố ý khai thác thặng dư một
khối lượng khổng lồ đất hiếm, sau đó cố ý
bán phá giá khối lượng khổng lồ đất hiếm đó
vào thị trường toàn cầu. Kết quả là làm hạ giá
toàn cầu xuống thấp hơn chi phí sản xuất và loại
các đối thủ cạnh tranh nước ngoài ra khỏi thị
trường đất hiếm.
Thực
vậy, một trong những nạn nhân lớn nhất của chiến
dịch phá giá của Trung Quốc là một công ty Hoa Kỳ
ở Denver, tiểu bang Colorado, có tên là Molycorp. Đã
có thời Molycorp là vua của đất hiếm, và mỏ
Mountain Pass của họ ở California là mỏ lớn nhất
thế giới. Nhưng vì chiến dịch phá giá tận diệt
của Trung Quốc, Molycorp buộc phải đóng mỏ vào năm
2002.
Trong
nhiều năm qua, khi cartel độc quyền thao túng đất
hiếm đã vững, Trung Quốc đã chuyển từ giai đoạn
I “bán phá giá”, sang giai đoạn II “ép giá”. Vì
đã bán phá giá tiêu diệt các công ty khai thác
khoáng sản nước ngoài nên ở giai đoạn “ép giá”
này, Trung Quốc bắt đầu đột ngột tăng giá đất
hiếm.
Chẳng
hạn như cerium oxide, vật liệu trọng yếu trong việc
chế tạo pin nhiên liệu và các bộ chuyển đổi xúc
tác. Năm 2007, thì giá toàn cầu chỉ khoảng 3 đô-la
một kí-lô. Năm 2010, sau khi Trung Quốc áp dụng chính
sách hạn chế xuất cảng, giá của vật liệu cerium
oxide nhảy vọt lên tới 23 đô-la mỗi kí-lô - tăng
hơn 7 lần chỉ trong vòng 3 năm.
Còn
đối với chất samarium oxide thì như thế nào? Đây
là loại vật liệu đất hiếm rất quan trọng dùng
trong sản xuất các thanh nam châm cực mạnh, và được
sử dụng trong trong trị bệnh ung thư bằng phóng
xạ... Giá của đất hiếm này đã tăng tới gần
1,000%.
Tất
nhiên, việc tăng giá phi thường này đã bắt đầu
khiến các nhà đầu tư nước ngoài thận trọng trở
lại thị trường đất hiếm, (chính công ty Molycorp
cũng đã bắt đầu mở lại mỏ). Tuy nhiên, các đối
thủ cạnh tranh của Trung Quốc phải đối mặt với
một rủi ro rất lớn: bất cứ lúc nào, các công ty
khai thác đất hiếm quốc doanh của Trung Quốc có
thể lại sản xuất ào ạt, lại tràn ngập thị
trường, lại làm giảm giá, và - bản cũ soạn lại
- các công ty như Molycorp lại bị loại ra khỏi ngành
kinh doanh về đất hiếm.
Chẳng
ngạc nhiên gì, nguy cơ phá giá bất cứ lúc nào do
Trung Quốc tạo ra để chèn ép các công ty sản xuất
đất hiếm bên ngoài Trung Quốc, đã có tác dụng
đúng như chính phủ Trung Quốc mong muốn.
Độc
chiêu tối hậu của chiến lược đất hiếm có một
khía cạnh nữa, Trung Quốc còn biến trò chơi phá
giá để thống trị kinh tế của họ thành một võ
khí lợi hại như một quả đấm sắt (****) để gây
sức ép chính trị. Chẳng hạn, trong một vụ nổi
tiếng năm 2010, Nhật Bản đã phải nhượng bộ và
thả thuyền trưởng liều lĩnh người Trung Quốc bị
bắt vì phạm tội cố ý đâm vào tàu tuần dương
bảo vệ lãnh hải của Nhật Bản ở vùng biển gần
quần đảo Senkaku - vùng lãnh thổ được kiểm soát
bởi Nhật Bản, mà Trung Quốc đòi là của họ. Tất
nhiên, một trong những lý do chính mà Nhật Bản đã
phải cúi đầu nhượng bộ sức ép của Trung quốc
là vì Trung Quốc đã ngưng xuất cảng đất hiếm
sang Nhật Bản. Đất hiếm là nguyên liệu then chốt
trong việc sản xuất của ngành công nghiệp xe hơi
và điện tử của Nhật Bản.
#8:
Trời ơi, Vạn lý Trường thành Bảo hộ ghê gớm
quá!
Vũ
khí Hủy diệt Việc làm cuối cùng, là Vạn lý
Trường thành Bảo hộ xừng xững và hùng vĩ được
xây dựng bằng nhiều loại “gạch” như: thuế
đánh vào hàng nhập cảng, những hạn ngạch trá
hình một cách sơ sài, thuế hải quan quá mức, các
luật lệ “Mua hàng Trung Quốc” bắt buộc dùng
hàng nội địa, các rào cản kỹ thuật đối với
thương mại, cùng với những mánh khóe bỏ thầu
gian lận.
Nói
trắng ra thì những bức tường bảo hộ nghĩa là:
Trong khi các nhà máy sản xuất máy điện toán của
Trung Quốc ở Thâm Quyến, các công ty may mặc ở
Đông Dương, tỉnh Chiết Giang, hay các nhà máy sản
xuất phụ tùng máy bay ở Thượng Hải có thể tự
do bán hàng hóa ở thị trường Bắc Mỹ, thì những
công ty và các đối thủ cạnh tranh của họ ở San
Jose, Mexico City, và Dorval, tỉnh bang Québec (Canada),
không được tự do bán hàng hóa ở Trung Quốc. Vậy
chẳng có gì ngạc nhiên khi thấy nền sản xuất của
chúng ta đang trong tình trạng dở sống dở chết.
Tổng
kết những quan ngại về Trung Quốc
Khi
tổng kết tất cả tám Vũ khí Hủy diệt Việc làm
của Trung Quốc sẽ thấy kết quả là hàng triệu
việc làm của Hoa Kỳ, Canada, Âu châu, Mexico và Á
châu bị mất, và toàn bộ nền sản xuất của Tây
phương đã bị khuất phục. Khi kết hợp từng vũ
khí trong số tám Vũ khí Hủy diệt Việc làm của
Trung Quốc với những dòng người thất nghiệp ở
Hoa Kỳ, tình trạng trì trệ kinh tế ở Nhật Bản,
khủng khoảng nợ ở Âu châu, và tình trạng dân
chúng nổi loạn ở Mexico, bạn sẽ nhìn thấy một
bức tranh rộng lớn hơn: đó là chính sách và chiến
lược công nghiệp theo chủ nghĩa con buôn và chủ
nghĩa bảo hộ mà Trung Quốc theo đuổi không nhằm
vào mục tiêu nào khác ngoài mưu toan thống trị hoàn
toàn nền sản xuất thế giới, thống lĩnh thị
trường toàn cầu, và khuất phục Thế giới Tây
phương về kinh tế.
Trên
cương vị là Tổng giám đốc Điều hành của công
ty Nucor Steel, ông Dan Dimicco đã hùng hồn phát biểu
như sau: “Chúng ta ở trong cuộc chiến tranh thương
mại với Trung Quốc đã hơn một thập niên. Nhưng
chỉ có họ là những người khai hỏa!”. Ngay cả
Tổng giám đốc luôn luôn ‘nhũn nhặn’ của tập
đoàn General Electrics, ông Jeffery Immelt, trong một lúc
thức tỉnh hiếm có cũng phải nhận xét như sau:
“Tôi thực sự lo lắng về Trung Quốc, tôi không
chắc là cuối cùng họ muốn để cho ai trong chúng
ta thành công ai thắng lợi”.
Rõ
ràng là đã quá muộn rồi, đến lúc Hoa Kỳ và các
đồng minh của mình trong thị trường tự do và buôn
bán phân minh cần phải phản pháo lại đối thủ
Trung Quốc. Cũng đã quá muộn rồi đến lúc các nhà
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc cần phải
biết điều này: Tổ chức Thương mại Thế giới
được thành lập chỉ vì một mục đích, đó là
phát huy một nền mậu dịch tự do thực sự và đẩy
mạnh phát triển chung cho tất cả các quốc gia trên
thế giới. Bằng tám Vũ khí Hủy diệt Việc làm,
Trung Quốc đã phá hoại một cách có hệ thống cái
khung của tự do mậu dịch – thậm chí họ còn liên
tục chiếm lĩnh hết thị trường này tới thị
trường khác của Hoa Kỳ dưới chiêu bài WTO. Đây
là một trong những việc làm bẩn thỉu và đê tiện
nhất trong lịch sử kinh tế thế giới: cần phải
chặn đứng cái chủ nghĩa con buôn và chủ nghĩa bảo
hộ Trung Quốc. Không làm ngay thì còn chờ tới khi
nào nữa? Nếu Hoa Kỳ không làm thì quốc gia nào sẽ
làm? Như Thủ tướng Winston Churchill đã từng nói:
“Người ta tin là người Mỹ luôn luôn làm điều
đúng, sau khi họ đã dùng hết những giải pháp
khác”. Bây giờ chính là lúc chúng ta đã đến thời
điểm đó.
(*)
Nguyên tác: “Will it play in Peoria?” Peoria là thành
phố lớn nhất nằm bên dòng sông Illinois, thuộc
tiểu bang Illinois, Hoa Kỳ, với dân số khoảng 115
ngàn người. Thành ngữ “Will it play in Peoria?”
thường được dùng để hỏi liệu rằng một sản
phẩm, nhân vật, đề tài hay sự kiện nào đó có
sức lôi cuốn đối với dân chúng Hoa Kỳ hay không?
(**)
"American dream": Thành ngữ nói về niềm tin
về sự tự do cho phép tất cả các công dân và di
dân ở Hoa Kỳ theo đuổi các mục tiêu của họ
trong cuộc sống qua sự làm việc siêng năng và tự
chọn lựa, bằng khả năng hơn là bằng địa vị xã
hội của mình.
(***)
"Trickle-down economics": Quan điểm kinh tế từ
thời Đại khủng hoảng cho rằng giúp các doanh
nghiệp thì lợi ích sẽ lan tỏa đến người dân.
(****)
Nguyên tác "brass knuckle": tiếng Pháp là "coup
de poing américain": võ khí kim loại đeo vào cườm
tay để đấm, gây thương tích nặng cho đối thủ.
Chương
5
Chết
bởi thủ đoạn thao túng tiền tệ: Ngọa Hổ,
Kình Long
|
|
Công
nhân Hoa Kỳ có thể cạnh tranh với công nhân Trung
Quốc tính theo từng đồng đô-la một. Nhưng họ
không thể cạnh tranh khi tỷ giá đô-la so với đồng
nhân-dân-tệ bị thao túng. -
Eric Lotke, Chiến dịch vì Tương lai Hoa Kỳ
Nếu
tiền là căn nguyên của mọi xấu xa, thì sự thao
túng đồng nhân-dân-tệ của Trung Quốc là cái rễ
cái phát sinh mọi lệch lạc trong quan hệ thương mại
Hoa Kỳ - Trung Quốc. Hơn một thập niên, thâm hụt
mậu dịch trầm trọng của Hoa Kỳ đối với Trung
Quốc đã làm chậm đáng kể tỷ lệ tăng trưởng
kinh tế và nâng cao tỷ lệ thất nghiệp ở Hoa Kỳ.
Trung Quốc đã không thể tiếp tục hút cạn sinh lực
của kinh tế Hoa Kỳ nếu không có những nanh vuốt
thao túng tiền tệ.
Trung
Quốc thao túng tiền tệ bằng cách cố tình “gài”
nhân-dân-tệ với đô-la Hoa Kỳ ở một tỷ giá thấp
dưới giá trị thật một cách bỉ ổi. Để hiểu
lý do tại sao điều này lại phá hoại kinh tế Hoa
Kỳ, cần biết rằng nền kinh tế bất kỳ quốc gia
nào cũng chỉ phụ thuộc vào bốn yếu tố: mức chi
tiêu của người tiêu dùng, mức đầu tư kinh doanh,
chi tiêu chính phủ và “thặng dư xuất cảng”.
Động
lực tăng trưởng sau cùng – thặng dư xuất cảng –
là quan trọng nhất khi bàn về thao túng tiền tệ,
vì nó đo lường sự chênh lệch của tổng số xuất
cảng trừ đi tổng số nhập cảng. Nhận xét quan
trọng dưới đây nhấn mạnh vai trò thiết yếu của
thặng dư xuất cảng đối với nền kinh tế:
Khi
Hoa Kỳ chịu thâm hụt triền miên với Trung Quốc,
tỷ lệ tăng trưởng kinh tế quan trọng bị giảm
nhiều. Tỷ lệ tăng trưởng bị chậm lại này lại
làm giảm số công việc được tạo ra.
Dĩ
nhiên, trong khi kinh tế Hoa Kỳ bị tăng trưởng chậm
và thất nghiệp cao thì Trung Quốc được hưởng tác
dụng ngược lại. Con Rồng Trung Quốc thăng lên,
trong khi Hoa Kỳ thoái lui.
Mỗi
ngày một già hơn, một nợ nần hơn, một tăng
trưởng chậm hơn
Vậy
thì thâm hụt mậu dịch của chúng ta so với Trung
Quốc lớn đến mức nào? Bao nhiêu việc làm đã mất
vì “sự lệ thuộc nhập cảng từ Trung Quốc”? Và
tại sao thao túng tiền tệ là lý do chính yếu khiến
Hoa Kỳ không thể giảm thiểu đáng kể mức thâm
hụt mậu dịch? Chỉ khi biết được các câu trả
lời, chúng ta mới có thể thoát khỏi bẫy thao túng
tiền tệ của Trung Quốc. Hãy bắt đầu với quy mô
thâm hụt mậu dịch của Hoa Kỳ.
Xét
về con số tuyệt đối, Hoa Kỳ nhập cảng từ Trung
Quốc nhiều hơn xuất cảng sang Trung Quốc gần 1 tỷ
đô-la mỗi ngày làm việc. Đây không phải lỗi đánh
máy; hàng tỷ chứ không phải hàng triệu.
Còn
xét về con số tương đối, mức thâm thủng cũng
làm kinh ngạc không kém. Trung Quốc chiếm đến
khoảng một nửa mức thâm hụt thương mại về hàng
hóa của Hoa Kỳ hàng năm, và lên đến 75% khi không
kể tới số nhập cảng dầu hỏa. Như vậy, căn cứ
trên các thống kê này thì suy luận hợp lý về
chính sách là:
Nếu
Hoa Kỳ muốn giảm mức thâm hụt mậu dịch, để
tăng tỷ lệ phát triển, và tạo thêm nhiều việc
làm thì điểm tốt nhất để bắt đầu chính là
cải cách tiền tệ với Trung Quốc.
Tầm
ảnh hưởng thực sự của việc lệ thuộc nhập
cảng từ Trung Quốc lên mức tăng trưởng và tỷ lệ
thất nghiệp của Hoa Kỳ cũng làm chúng ta giật mình
sửng sốt. Cả thập niên vừa qua, mức thâm thủng
mậu dịch so với Trung Quốc đã lấy mất gần nửa
phần trăm tăng trưởng GDP hàng năm của chúng ta.
Con số trông có vẻ không lớn, nhưng nửa phần trăm
này đã có tác động tích lũy làm kinh tế Hoa Kỳ
không thể cung cấp hàng triệu việc làm. Giả sử
chúng ta có được số việc làm này bây giờ, cộng
thêm hàng triệu việc làm nữa trong khu vực sản
xuất không bị hủy hoại do các thủ đoạn thương
mại bất chính khác của Trung Quốc, chúng ta sẽ
không thấy những hàng người thất nghiệp rồng rắn
nối đuôi nhau quanh các tòa nhà chính phủ, những
bãi hoang nhà khóa cửa im lìm chờ bị tịch thu, và
những công xưởng trống trơn đầy cỏ dại ở Hoa
Kỳ. Trái lại chúng ta hẳn vẫn cảm thấy an toàn
thoải mái về tài chính.
Cũng
xin nói thêm là những dữ kiện gây choáng ngộp này
lại làm chúng ta nhớ tới chuyện Willie Sutton, một
tay cướp nhà băng khét tiếng. Khi Sutton được hỏi
tại sao lại cướp ngân hàng, hắn trả lời, “Bởi
vì ở đó có tiền”. Cũng giống như ngân hàng là
nơi có tiền, nhắm vào chính sách thao túng tiền tệ
của Trung Quốc là cách có nhiều triển vọng nhất
để giảm thâm hụt thương mại và lấy lại phong
độ tăng trưởng kinh tế.
Những
thời khó khăn của Hoa Kỳ do chính sách khóa cứng
tỷ giá của Trung Quốc
Như
vậy Trung Quốc đã thao túng tiền tệ như thế nào?
Họ đã thực hiện hữu hiệu bằng cách khóa cứng
đồng nhân-dân-tệ với đồng đô-la ở một tỷ lệ
thấp dưới giá trị thực: khoảng 6 nhân-dân-tệ
đổi lấy 1 đô-la. Đồng nhân-dân-tệ quá rẻ đã
trở nên một thứ trợ cấp béo bở cho các nhà xuất
cảng Trung Quốc, trong khi lại là thứ thuế nặng
đánh lên hàng hóa Hoa Kỳ nhập cảng vào Trung Quốc.
Kết quả của chính sách thao túng tiền tệ này,
phối hợp với các thủ đoạn thương mại bất
chính khác như đã được đề cập, đã gây nên
tình trạng thâm thủng mậu dịch mãn tính của Hoa
Kỳ với mức độ trầm trọng mà chúng ta đã mô tả
ở trên.
Và
đây là điểm then chốt liên hệ tới vấn đề thao
túng tiền tệ: sự bất cân xứng mậu dịch Hoa Kỳ
- Trung Quốc đã không thể nào có được trong một
thế giới tự do mậu dịch nếu Trung Quốc thả nổi
tiền tệ của mình một cách tự do, cũng như bao
loại tiền tệ thả nổi khác trên thế giới như
yen của Nhật, real của Brazil, franc của Thụy Sỹ,
rupee của Ấn Độ, và đô-la của Hoa Kỳ.
Trong
một thế giới tự do mậu dịch với việc thả nổi
hoàn toàn các tỷ giá, sự bất cân xứng thương mại
Hoa Kỳ - Trung Quốc sẽ không bao giờ kéo dài, bởi
vì khi mức thâm hụt của Hoa kỳ tăng lên, đồng
đô-la sẽ giảm giá đi so với đồng nhân-dân-tệ.
Khi đô-la mất giá, hàng xuất cảng của Hoa Kỳ sang
Trung Quốc sẽ tăng lên, hàng nhập từ Trung Quốc sẽ
giảm, và mậu dịch sẽ quay về vị trí cân bằng.
Tuy nhiên, bằng cách gài đồng nhân-dân-tệ vào đồng
đô-la, một Trung Quốc theo chủ nghĩa con buôn đã
làm đảo lộn tiến trình điều chỉnh mậu dịch tự
nhiên này, thậm chí nó còn làm suy yếu cơ cấu mậu
dịch tự do toàn cầu vốn dựa trên triển vọng các
bên cùng có lợi.
Con
Rồng có móng vuốt hạt nhân tuyên bố một loại
chiến tranh mới
Chính
phủ Trung Quốc đã bắt đầu một chiến dịch đồng
loạt tung ra các đe dọa kinh tế chống lại Hoa Kỳ,
ngụ ý rằng họ có thể đổi ra tiền mặt số trái
phiếu Hoa Kỳ khổng lồ họ đang nắm giữ, nếu
Washington áp đặt các cô lập thương mại… Được
mô tả như là “phương án chiến tranh hạt nhân”
trên báo chí của chính phủ Trung Quốc, hành động
đó có thể khiến cho đồng đô-la sụp đổ… Nó
cũng làm tăng vọt tỷ lệ sinh lời của trái phiếu
chính phủ Hoa Kỳ, làm chao đảo thị trường nhà
đất và có lẽ sẽ đẩy nền kinh tế Hoa Kỳ vào
suy thoái. -
The London Telegraph
Thật là tồi tệ khi mà chính
sách thao túng tiền tệ của Trung Quốc đã đẩy
kinh tế Hoa Kỳ kẹt vào giai đoạn chạy tốc độ
chậm trong khi hủy diệt hàng triệu việc làm. Còn
tồi tệ hơn nữa, “cái chết bởi thao túng tiền
tệ” này lại đe dọa kéo theo “cái chết của chủ
quyền chính trị Hoa Kỳ”. Tâm điểm của vấn đề
là những lời đe dọa mà những kẻ hiếu chiến
đang điều hành Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đưa
ra. Chúng gọi đó là “phương án chiến tranh hạt
nhân tài chính”, và nó bao gồm cả chuyện sử dụng
dự trữ ngoại hối khổng lồ của Trung Quốc để
làm xáo trộn các ngân hàng Hoa Kỳ, thị trường
chứng khoán, và thị trường trái phiếu.
Để
biết được mối đe dọa của Trung Quốc “thả
bom” hệ thống tài chính là đáng tin đến mức
nào, chúng ta nên mô tả chi tiết hơn cách Trung Quốc
thao túng tiền tệ. Quá trình này bắt đầu khi bạn
hay tôi bước vào cửa hàng như Walmart chẳng hạn và
mua một sản phẩm Trung Quốc, sau đó những đồng
đô-la này sẽ được đưa ra ngoài nước. Lúc này,
để duy trì tỷ giá cố định đồng đô-la so với
đồng nhân-dân-tệ, Trung Quốc phải nhanh chóng hồi
chuyển số “đô-la Walmart” đó của chúng ta quay
trở lại Hoa Kỳ bằng cách mua tài sản tài chính
như trái phiếu chính phủ, bất động sản, hay các
công ty Hoa Kỳ; nếu không, áp lực tăng giá sẽ bị
áp đặt lên đồng nhân-dân-tệ.
Đây là mánh
lới đáng chú ý nhất về thủ đoạn thao túng tiền
tệ: trước khi chính phủ Trung Quốc có thể hồi
chuyển bất cứ đồng đô-la Walmart nào của chúng
ta, họ phải thâu những đô-la này từ tay những nhà
xuất cảng Trung Quốc. Điều này được thực hiện
bằng một mánh lới khá lắt léo được gọi là
“khử tiền” (sterilization).
Để
“khử” những đồng đô-la Walmart của chúng ta ra
khỏi thị trường nội địa, chính phủ Trung Quốc
ép các nhà xuất cảng trong nước phải mua trái
phiếu chính phủ Trung Quốc định giá bằng đô-la
Hoa Kỳ. Khi giao tiền đô-la cho chính phủ, các nhà
xuất cảng nhận được các trái phiếu “khử tiền”
này với lãi suất khoảng 4%. Sau đó chính phủ Trung
Quốc lại đầu tư những đô-la này vào trái phiếu
chính phủ Hoa Kỳ với lãi suất thấp dưới 2%.
Trung Quốc do đó mất 2% hay nhiều hơn về lãi suất
cho mỗi đô-la Hoa Kỳ được “khử”, và khoản lỗ
này lên đến hàng tỷ đô-la.
Câu hỏi là tại
sao Ngân hàng Trung ương Trung Quốc sẵn sàng gánh
chịu khoản lỗ khổng lồ như vậy? Câu trả lời
là bởi vì Đảng Cộng sản Trung Quốc quan tâm nhiều
hơn đến việc tạo công ăn việc làm để duy trì
sự ổn định chính trị và sự toàn trị đất nước
hơn là việc kiếm tiền thực thụ. Đó là một
trong những sự khác biệt lớn giữa chủ nghĩa tư
bản Hoa Kỳ thực dụng và chủ nghĩa tư bản bá đạo
mà nhà nước Trung Quốc đã thực hiện qua chủ
trương “đóng cửa đi ăn mày” (beggar thy
neighbour). Và họ không hề bận tâm là trong thủ
đoạn thao túng tiền tệ "lợi mình hại người"
này số việc làm tạo ra tại Trung Quốc lại chính
là số việc làm bị mất đi trong nền kinh tế Hoa
Kỳ.
Thực
vậy, thủ đoạn thao túng tiền tệ này đã tích lũy
được một quỹ dự trữ ngoại hối trên hai nghìn
tỷ đô-la Hoa Kỳ do Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc
nắm giữ, và ngân hàng này đã nghiễm nhiên trở
thành một ngân hàng cho vay cầm cố (mortgage banker)
của người Mỹ. Để thấy rõ con số này lớn như
thế nào, chúng ta sẽ rất kinh ngạc khi biết nó còn
lớn hơn tổng sản lượng quốc gia (GNP) của Ấn Độ
hay Canada, và gần bằng GNP của nước Anh. Nó cũng
lớn hơn tổng sản lượng nội địa (GDP) của cả
ba nước Đại Hàn, Mexico, và Ireland gom lại!
Con
số lớn kinh khủng này cũng có nghĩa rằng: Trung
Quốc có thể đem quỹ dự trữ ngoại hối của họ
mua quyền kiểm soát trong tất cả công ty lớn của
Hoa Kỳ có niêm yết trên danh sách Chỉ số Trung bình
Công nghiệp Dow Jones, trong đó có các công ty khổng
lồ như Microsoft, Exxon, và Walmart, mà vẫn còn dư
tiền để mua phần lớn cổ phần của Apple, Intel,
và Ford.
Chính sự tích lũy khổng lồ quỹ dự
trữ ngoại hối bằng đô-la Hoa Kỳ đã khiến cho
Đảng Cộng sản Trung Quốc có cơ sở đe dọa tàn
phá hệ thống tài chính Hoa Kỳ. Như Hà Phàm (He Fan)
thuộc Hàn lâm Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc đã
nói - khi đe dọa sử dụng “phương án tấn công
hạt nhân” về tài chính - rằng giả sử Trung Quốc
bắt đầu bán tháo đô-la thì "đồng đô-la sẽ
tuột giá thê thảm". Và như trích dẫn ở đầu
chương đã mô tả rất đầy đủ, sự sụp đổ
đồng đô-la “sẽ làm tăng vọt tỷ lệ sinh lời
của trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ, làm chao đảo thị
trường nhà đất và có lẽ sẽ đẩy nền kinh tế
Hoa Kỳ vào suy thoái”.
Thực vậy, đã có bằng
chứng rõ ràng cho thấy một chú Sam bạc nhược bắt
đầu dâng hiến cho Trung Quốc ít nhất một vài chủ
quyền chính trị của Hoa Kỳ vì sợ nguy cơ rất có
thể xẩy ra của phương án tấn công hạt nhân bằng
tài chính từ phía Trung Quốc. Quả thật như vậy,
hiện nay bất cứ khi nào mà Tòa Bạch Ốc, Quốc hội
hay Đại diện Thương mại Hoa Kỳ lên tiếng hăm dọa
bài trừ các thủ đoạn thương mại bất chính,
Trung Quốc liền bắn một phát hỏa tiễn cảnh cáo
bằng cách đe dọa bán tháo - và trong vài trường
hợp có bán tháo thật – dự trữ đô-la. Thật vậy,
sự tồn tại của mối “đe dọa hạt nhân tài
chính” giải thích phần lớn hành động rụt rè
triền miên đối với Trung Quốc của mấy đời Bộ
trưởng Tài chính trong thập niên qua, từ Hank Paulson
dưới thời Bush cho đến Timothy Geithner dưới thời
Obama.
Mong
bạn hiểu rõ điều này: với thời gian, quả là
điều cực kỳ ngây thơ cho bất kỳ người Mỹ nào
nếu họ nghĩ rằng chiêu thức “tống tiền bằng
đồng bạc xanh” của Trung Quốc chỉ giới hạn
trong các vấn đề mậu dịch. Một lúc nào đó, các
quan chức Trung Quốc có thể sử dụng vũ khí này
đối với bất cứ vấn đề địa lý chính trị
nào: từ chuyến thăm Tòa Bạch Ốc của Đức Đạt
Lai Lạt Ma, bán vũ khí cho Ấn Độ cho đến mối
xung đột dai dẳng trên bán đảo Đại Hàn, cũng như
vấn đề nhạy cảm Hoa Kỳ ủng hộ Đài Loan.
Trung
Quốc, xin các ngài cho chúng tôi vô số bạc cắc!
Sự
thao túng tiền tệ của Trung Quốc không chỉ làm mất
chủ quyền chính trị của Hoa Kỳ. Nó còn làm nước
Mỹ tự sa vào “nạn chi tiêu quá mức”. Xin nhớ
rằng trong quá trình thao túng tiền tệ, chính phủ
Trung Quốc phải duy trì cái tỷ giá cố định giữa
đồng nhân-dân-tệ và đồng đô-la, chủ yếu bằng
cách mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ. Bằng cách
này, chủ nợ Trung Quốc của chúng ta đã giúp các
nhà chính trị Hoa Kỳ tài trợ cho mức thâm hụt
ngân sách khổng lồ.
Điều mỉa mai là Trung
Quốc đã giúp chúng ta có tiền để tài trợ các
chương trình như chương trình kích thích tài chính
hàng loạt của Hoa Kỳ và chính sách cho vay dễ dàng
của Cơ quan Dự trữ Liên bang. Bởi vì nói cho cùng
thì chính vì mức thâm hụt ngoại thương hút máu
với Trung Quốc mà các nhà chính trị Hoa Kỳ đã
phải tiếp tục dùng khiếm hụt ngân sách để hà
hơi tiếp sức cho nền kinh tế èo ọt, đến nỗi
chúng ta ngày một mắc nợ sâu đậm hơn một chế
độ độc tài đang hưởng lợi từ sự suy vong của
Hoa Kỳ.
Thực
vậy, tất cả quá trình buồn thảm này mà trong đó
Trung Quốc đóng vai người cho Hoa Kỳ vay nợ, là một
phần của cuộc “thương lượng với Quỷ dữ” mà
Tổng thống Barrack Obama đã thực hiện ngay từ lúc
nhậm chức và quên lời hứa sẽ mạnh tay với chủ
nghĩa con buôn Trung Quốc. Ở đây, chúng ta cần nhớ
rõ rằng trong cuộc vận động tranh cử 2008, tại
các tiểu bang công nghiệp chủ chốt vẫn còn đang
do dự như Illinois, Michigan, Ohio, và Pennsylvania, ứng
cử viên tổng thống Barack Obama đã hứa đi hứa lại
rằng sẽ chấm dứt các thủ đoạn thương mại bất
chính của Trung Quốc.
Tuy nhiên từ khi nhậm
chức, Bộ Tài chính của Tổng thống Obama, do Timothy
Geithner làm bộ trưởng như đã nói ở trên, đã
nhiều lần từ chối không lên tiếng đổ lỗi cho
Trung Quốc là kẻ thao túng tiền tệ. Đáng tiếc là
phải đổ lỗi như vậy thì Hoa Kỳ mới có lý do
chính đáng để đánh thuế nhập cảng nhằm hóa
giải một trong những đòn lợi hại nhất của chủ
nghĩa con buôn Trung Quốc. Nhưng thay vì thực thi lời
hứa khi tranh cử, Tổng thống Obama đã chọn một
cuộc thương lượng nguy hiểm với Quỷ Trung quốc:
“Ngươi cứ tiếp tục mua trái phiếu của ta đi, và
ta sẽ không áp dụng bất kỳ biện pháp nào đáng
kể để cải cách mậu dịch”. Bằng cách này, ngài
Tổng thống đã sai lầm khi đặt chính trị và nhu
cầu tài chính ngắn hạn của chính quyền ông ta lên
trên triển vọng phục hồi kinh tế dài hạn của
Hoa Kỳ. Đây là hoàn toàn sai, bởi vì cho dù có mượn
bao nhiêu nghìn tỷ “đô-la Walmart” từ Trung Quốc
để đổ vào nền kinh tế Hoa Kỳ, những đồng tiền
kích thích này cũng chẳng đi đến đâu cho đến khi
chúng ta có được cải cách tích cực về tiền tệ
với Trung Quốc.
Hoa
Kỳ mắc kẹt trong thang máy kinh tế toàn cầu
Chúng
tôi quá chán nản rồi. Chính sách con buôn của Trung
Quốc đã làm thương tổn các nước trên thế giới,
không phải chỉ Hoa Kỳ. Nó góp phần gây nên cuộc
suy thoái toàn cầu. Trung Quốc muốn được đối xử
như một nước đang phát triển, nhưng họ là một
gã khổng lồ, là nước xuất cảng hàng đầu trên
thế giới. -Thượng
Nghị sĩ Lindsay Graham (Đảng Cộng hòa – tiểu bang
Nam Carolina)
Sau
hết nhìn trên bình diện toàn cầu, việc thao túng
tiền tệ của Trung Quốc không chỉ làm tổn hại
kinh tế Hoa Kỳ. Nó đe dọa xé tan toàn bộ cấu trúc
kinh tế toàn cầu và cơ cấu thương mại tự do. Vấn
đề là ở chỗ: mỗi khi đồng đô-la giảm so với
các loại tiền tệ khác như euro, real, won, hay yen –
như hiện nay thường xảy ra - thì đồng nhân-dân-tệ
cũng tuột giá theo nó. Việc tuột giá của đồng
nhân-dân-tệ so với các tiền tệ khác lại cho con
buôn Trung Quốc một lợi thế sắc bén hơn đối với
các đối thủ cạnh tranh khắp thế giới, từ châu
Âu và Brazil cho đến Nhật Bản và Đại Hàn. Kết
quả là xuất cảng suy giảm đã đẩy châu Âu vào
kinh tế trì trệ và kéo dài thêm sự tăng trưởng
yếu kém của Nhật Bản vốn đã diễn ra cả chục
năm nay. Trong khi đó, lạm phát gia tăng ở các quốc
gia như Úc và Brazil, do các dòng tiền nóng đầu cơ
và do sự tăng giá hàng hóa do ảnh hưởng đồng
nhân-dân-tệ được định giá quá thấp.
Trong
khi các diễn biến này xẩy ra – và bất chấp các
lời kêu gọi lặp đi lặp lại từ các định chế
như Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới
yêu cầu Trung Quốc tăng giá đồng nhân-dân-tệ –
Trung Quốc vẫn khăng khăng không chịu cải tổ.
Đường lối cứng rắn này xuất phát ngay từ cấp
lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc; như một câu
ngạn ngữ nói: “Cá ươn từ đầu trở xuống”.
Ví
dụ, hãy nghe câu trả lời không ai tin được của
Thủ tướng Ôn Gia Bảo. Trước áp lực đòi định
giá lại đồng nhân-dân-tệ của các thành viên khác
trong khối G-20, thủ tướng Ôn nói: "Trước
tiên, tôi không nghĩ đồng nhân-dân-tệ được định
giá thấp”. Đúng đấy, ông Ôn! [Nói như vậy thì
chắc ông cũng nói rằng] không khí ở Bắc Kinh rất
trong lành, người Tây Tạng rất thích đất nước
họ là một phần của Trung Quốc, người dân được
tự do ngôn luận ở Thượng Hải, và phi thuyền thăm
dò mặt Trăng của Trung Quốc cho thấy mặt Trăng làm
bằng phó-mát Thụy Sĩ.
Thực
vậy, với các kiểu trả lời vô lý như vậy của
các lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc trước áp
lực quốc tế, không biết việc Trung Quốc chối
không thao túng tiền tệ là một bi kịch của
Shakespeare hay một hài kịch của Molière. Bởi vì nói
cho cùng, trong số các quốc gia hưởng lợi nhờ sự
lên giá của đồng nhân-dân-tệ thì Trung Quốc là
nước hưởng lợi nhất.
Trước
hết, một đồng nhân-dân-tệ mạnh lên sẽ khắc
phục lạm phát đang gia tăng nhanh chóng ở Trung Quốc,
vì một đồng nhân-dân-tệ mạnh sẽ hạ giá xăng
dầu, nguyên liệu, và vô số vật liệu mà Trung Quốc
cần để vận hành các nhà máy. Thêm một điều
quan trọng để chống lạm phát nữa là một đồng
nhân-dân-tệ mạnh cũng nhanh chóng chặn đứng các
dòng « tiền nóng » đầu cơ đang đổ vào làm tăng
giá thị trường chứng khoán và thổi phồng cái
bong bóng bất động sản tại Trung Quốc.
Điều
quan trọng nhất là đồng nhân-dân-tệ mạnh sẽ cải
thiện đáng kể mãi lực của người tiêu dùng có
thu nhập thấp ở Trung Quốc. Bằng cách này, cải
cách tiền tệ sẽ làm Trung Quốc phụ thuộc ít hơn
vào mức xuất cảng ra thị trường thế giới - một
điểm yếu được mô tả như gót chân Achilles của
mô hình tăng trưởng Trung Quốc.
Tiếc
thay, các lãnh đạo Trung Quốc từ chối chấp nhận
lý lẽ thuyết phục của thông điệp này. Thay vào
đó, những nhà ý thức hệ lỗi thời này vẫn khăng
khăng bảo vệ quan điểm ngoan cố cho rằng nâng cao
giá trị đồng nhân-dân-tệ mạnh lên sẽ hủy hoại
nền kinh tế Trung Quốc vì xuất cảng sẽ bị giảm
mạnh. Nhưng đó cũng là một cách khác để nói rằng
phương thức duy nhất giữ Trung Quốc tiếp tục phát
triển là bằng cách làm cho các nước khác trên thế
giới nghèo đi. Ta cũng cần nhận thấy rằng chủ
trương làm nghèo các nước khác trên thế giới và
đặc biệt là làm suy nhược nền kinh tế và sản
xuất Hoa Kỳ, thực ra cũng rất có thể là một
trong những mục tiêu quân sự và chiến lược dài
hạn của Trung Quốc.
Chương
6
Chết
bởi những doanh nghiệp Hoa Kỳ phản bội: Khi
màu xanh đô-la che phủ màu cờ Hoa kỳ |
|
General
Electric có kế hoạch đổ hơn 2 tỷ đô-la vào Trung
Quốc từ nay đến 2012. Tập đoàn này tiếp tục
chuyển các nhà máy từ Hoa Kỳ sang Trung Quốc và tạo
ra hơn 1,000 việc làm mới… Tháng vừa rồi, GE đã
quyết định đóng cửa nhà máy bóng đèn tại
Virginia và chuyển 200 việc làm đó đến Trung Quốc.
-
London’s Daily Mail
Không
có danh dự trong thâm tâm kẻ cắp – và không có
lòng yêu nước trong các công ty Hoa Kỳ. Đó là thông
điệp rất rõ ràng mà các công ty như General
Electric, Caterpillar, và Evergreen Solar đang chuyển đến
người dân Hoa Kỳ ngày nay, bằng hành động đóng
cửa các nhà máy cũ kỹ tại Hoa Kỳ và khai trương
các nhà máy mới tinh, hiện đại nhất tại vùng đất
của Rồng. Bằng cách tháo chạy qua Trung Quốc, những
con chuột lemmings(*) phản bội này không những đẩy
đất nước của họ xuống vực thẳm mà còn ký vào
bản án tử hình trong tương lai của chính công ty
họ. Trước kia đâu có vậy.
Đầu
thế kỷ này, khi Trung Quốc mới gia nhập Tổ chức
Mậu dịch Thế giới (WTO **) và bắt đầu dùng thủ
đoạn con buôn tấn công vào nền sản xuất Hoa Kỳ,
các tổng giám đốc doanh nghiệp Hoa Kỳ đã kề vai
sát cánh cùng công nhân phản đối mạnh mẽ các thủ
đoạn thương mại bất chính của Trung Quốc. Tuy
nhiên, những lời cảnh cáo nghiêm trọng đó của
liên minh chủ thợ doanh nghiệp đã rơi vào các lỗ
tai điếc của các người trong Tòa Bạch Ốc dưới
thời ông Bush, là những người có tư tưởng cứng
nhắc không phân biệt được sự khác biệt nghiêm
trọng giữa mậu dịch tự do có lợi cho tất cả và
mậu dịch bất chính chỉ có lợi cho Trung Quốc.
Bây
giờ, một thập niên sau, liên minh chủ thợ doanh
nghiệp Hoa Kỳ đã chịu cùng số phận chẳng khác
gì những người đấu tranh vì dân chủ đã bỏ mình
trên quảng trường Thiên An Môn. Trong bài toán chính
trị mới, với mỗi việc làm mới của người Mỹ
và mỗi nhà máy mới được chuyển sang Trung Quốc,
những tổ chức được gọi là “tổ chức Hoa Kỳ”
như Bàn tròn Doanh nghiệp, Hiệp hội Quốc gia các
Nhà Sản xuất, và Phòng Thương mại Hoa Kỳ cũng
biến từ các nhà phê bình trung kiên thành những kẻ
biện hộ ngoan ngoãn cho một nước Trung Quốc con
buôn và bảo hộ mặc sức làm gì thì làm với kinh
tế Hoa Kỳ và công nhân Hoa Kỳ.
Điều
trớ trêu tột độ trong sự phản bội của các
doanh nghiệp Hoa Kỳ là: trong quá trình tiếp tay Trung
Quốc tàn phá nền sản xuất Hoa Kỳ, phần lớn các
doanh nghiệp phản bội này cũng đang tàn phá tương
lai của chính công ty mình. Họ đang làm như vậy
bằng cách dâng hiến cho Trung Quốc không chỉ những
kỹ thuật hiện tại mà còn cả khả năng sáng tạo
ra kỹ thuật mới.
Để
hiểu lý do tại sao lại như vậy, tại sao nhiều
tổng giám đốc doanh nghiệp Hoa Kỳ sẵn lòng để
cho sự tôn thờ đồng đô-la xanh che phủ mầu cờ
đỏ trắng xanh của Hoa Kỳ, trước hết chúng ta
phải hiểu và phân tích “Ba đợt chuyển dịch ra
nước ngoài”, đặc điểm của cuộc di tản hàng
triệu việc làm từ Hoa Kỳ sang Trung Quốc.
Đợt
thứ nhất: Chế độ lao động nô dịch Trung Quốc
bắt đầu
Đợt
chuyển dịch ra nước ngoài đầu tiên từ từ bắt
đầu ngay sau khi Đảng Cộng sản mở cửa “Thiên
đường Nhân công” của Trung Quốc cho Tây phương
vào năm 1978. Nó được gọi là “Cải cách theo thị
trường”, thực ra là hủy bỏ các phúc lợi về y
tế và hưu trí cũng như quyền về an toàn lao động
và thù lao tương xứng của công nhân. Điều mỉa
mai là trong khi đó cuộc cải cách vẫn không giải
phóng nền kinh tế Trung quốc ra khỏi sự thống trị
của các công ty quốc doanh và chế độ kế hoạch
tập trung của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Không
phải ngẫu nhiên mà trong vài thập niên, các công ty
Tây phương như Mattel, Reebok, và Schwinn bắt đầu sản
xuất ra ngày càng nhiều các sản phẩm giá trị
thấp, tốn nhiều công sức như đồ chơi, giày thể
thao, xe đạp – bằng nhân công rẻ của Trung Quốc.
Chính
trong đợt chuyển dịch này, mô hình lao động nô
dịch phổ biến ở Trung Quốc ngày nay đã được
hoàn thiện. Trong các công xưởng, các nam nữ thanh
niên trẻ (và không ít trẻ em) mới từ nông thôn
ra, ký các hợp đồng ràng buộc khắt khe mà họ
không đủ trình độ để hiểu. Họ chen chúc làm
việc trong các xưởng máy đông nghẹt, nóng, và dơ
bẩn, từ 12 đến 16 tiếng một ngày. Họ ăn và ngủ
trong các khu ký túc xá chật chội thường có cửa
sổ song sắt hoặc vây bởi hàng rào trong khu vực
công ty. Nếu họ cố trốn thoát, họ sẽ bị đánh
đập. Nếu họ định tổ chức đình công, họ sẽ
bị đánh đập và sau đó bị sa thải.
Chính
những người nô lệ lao động thời kỳ hiện đại,
làm việc chỉ với 40 xu 1 giờ, đã tạo ra các đồ
chơi cho trẻ em chúng ta chơi, đúc đế giày để
chúng ta chạy, và may áo để chúng ta mặc. Một sự
thật đau lòng trong chuỗi dây xích trói chặt những
người nhân công này vào “Thế giới Dickens (***)
kiểu Trung Quốc”, là nhiều người vẫn thấy hạnh
phúc hơn trong hoàn cảnh nghiệt ngã đó, bởi vì dù
các công xưởng của Rồng có tồi tệ đến đâu
nhưng vẫn còn hơn cuộc sống của người nông dân
Trung Quốc.
Đợt
thứ hai: Nếu không thắng được họ, thì theo họ
Đợt
thứ hai bắt đầu ngay khi Trung Quốc gia nhập Tổ
chức Mậu dịch Thế giới năm 2001 và bắt đầu tấn
công trực diện vào nền sản xuất Hoa Kỳ bằng “Vũ
khí hủy diệt việc làm” như trợ cấp xuất cảng
bất hợp pháp và thao túng tiền tệ. Bị bao vây bởi
các nhà máy Trung Quốc, ngày càng nhiều giám đốc
doanh nghiệp Hoa Kỳ nhận ra rằng: nếu tận dụng
mạng lưới trợ cấp bất hợp pháp tinh vi cho hàng
xuất cảng của Trung quốc, họ có thể sản xuất
giá rẻ hơn tại Trung Quốc so với tại Hoa Kỳ, và
nếu họ không làm thì các đối thủ của họ chắc
chắn sẽ làm. Nhận thấy như vậy, các doanh nghiệp
Hoa Kỳ đã chạy theo khẩu hiệu “Nếu không thắng
được họ, thì theo họ”. Thế là đợt chuyển
dịch thứ hai liền trở thành sóng thần tsunami.
Điều
quan trọng cần nhấn mạnh là trong đợt thứ hai
này, mục tiêu đầu tiên của các nhà kinh doanh Hoa
Kỳ không phải là để bán hàng cho 1,3 tỷ người
đang đói hàng tiêu dùng tại thị trường Trung Quốc
mà là để xuất cảng ra khắp thế giới – trong đó
có bán ngược lại cho Hoa Kỳ. Cũng cần phải nói
rõ là các tổng giám đốc điều hành Hoa Kỳ tin
rằng cái mà họ lợi dụng được trong đợt chuyển
dịch này không chỉ là nhân công rẻ mạt; ngoài
Trung quốc, các nước như Bangladesh, Campuchia và Việt
Nam cũng có nhiều lao động rẻ. Cái điều mà họ
thấy thực sự cám dỗ là những thủ đoạn thương
mại bất chính, các quy định lỏng lẻo về môi
trường và an toàn lao động, và chế độ trợ cấp
xuất cảng giả tạo. Nếu chính phủ Hoa Kỳ không
trừng phạt các thủ đoạn thương mại bất chính
của Trung Quốc (chính quyền của Bush cũng làm một
chút trong lãnh vực này), thì ít ra là các cổ đông,
tổng giám đốc điều hành của các công ty này vẫn
thấy có lợi (dù không lợi cho công nhân) khi chuyển
nền sản xuất của họ sang Trung Quốc.
Đợt
thứ ba: Ảo tưởng lớn về 1.3 tỷ người tiêu dùng
Đợt
thứ ba và là đợt nguy hiểm nhất trong việc chuyển
dịch ra nước ngoài của Hoa Kỳ hiện đang tiếp
diễn. Nó được thúc đẩy một phần bởi nhân công
rẻ trong đợt thứ nhất và một phần về lợi thế
kiểu con buôn tại Trung Quốc trong đợt thứ hai.
Nhưng động lực thúc đẩy quan trọng hơn nhiều
trong đợt thứ ba là các tổng giám đốc điều hành
doanh nghiệp Hoa Kỳ có ảo tưởng rất lớn là họ
sẽ có cơ hội tiếp cận với một thị trường gồm
1.3 tỷ người tiêu dùng đang cư ngụ tại nước
đông dân nhất thế giới này. Đợt này nguy hiểm
nhất bởi vì nó bị mê hoặc bởi ảo tưởng là
phần lớn người tiêu dùng Trung Quốc có đủ khả
năng mua sắm để thúc đẩy thị trường – trong
khi thực tế có rất nhiều người nghèo đói. Đợt
chuyển dịch nguy hiểm cũng đòi hỏi các doanh nghiệp
Hoa Kỳ muốn bán hàng vào Trung Quốc phải chấp nhận
ba điều khoản bảo hộ trong chính sách “sáng tạo
bản địa” của Trung Quốc.
Điều
kiện bảo hộ thứ nhất đòi hỏi sở hữu thiểu
số: các công ty Hoa Kỳ phải liên doanh với đối
tác Trung Quốc và sở hữu không quá 49% doanh nghiệp.
Rõ ràng là, điều khoản này làm cho công ty Hoa Kỳ
mất quyền kiểm soát doanh nghiệp. Sau đó là, điều
kiện này cho phép đối tác sở hữu phần lớn
(thường là các công ty quốc doanh của Trung quốc)
quyền được tiếp cận với tất cả các thông tin
của liên doanh, bao gồm các bí mật nghề nghiệp.
Điều
khoản bảo hộ thứ hai là một trong những vi phạm
trắng trợn của Trung Quốc về quy định tự do mậu
dịch; điều khoản này là bắt buộc chuyển giao kỹ
thuật. Có nghĩa là muốn gia nhập thị trường các
công ty Hoa Kỳ bắt buộc phải giao nộp sở hữu trí
tuệ cho các đối tác Trung Quốc. Hiệu quả thực
của điều khoản này là tạo sự thuận tiện cho
việc phổ biến nhiều kỹ thuật khác nhau không chỉ
trực tiếp đến các đối tác Trung Quốc mà còn tới
chính phủ Trung Quốc và các đối thủ Trung Quốc
tiềm tàng khác. Với việc đầu hàng chấp nhận
điều kiện này, trong thực tế, các công ty Tây
phương đã tự tạo ra các đối thủ cạnh tranh ở
Trung Quốc chỉ trong nháy mắt.
Điều
kiện bảo hộ thứ ba phối hợp nhuần nhuyễn thủ
đoạn con buôn và bảo hộ của điều khoản thứ
hai với việc cưỡng bách chuyển giao kỹ thuật. Nó
cũng là cưỡng bách xuất cảng các cơ sở nghiên
cứu và phát triển của Tây phương sang Trung Quốc –
thêm một vi phạm nghiêm trọng nữa về quy định tự
do mậu dịch của WTO. Đây là nhát đâm tàn nhẫn
nhất, chẳng khác gì bán hạt giống bắp của Hoa
Kỳ. Như tất cả các nhà kinh tế nói, chính nghiên
cứu và phát triển làm nẩy sinh ra các sáng kiến kỹ
thuật cần cho việc tạo ra việc làm mới. Nếu
nghiên cứu và phát triển đó và sáng kiến đó xảy
ra trên đất Trung Quốc mà không phải tại Hoa Kỳ,
thì nước nào sẽ được miếng to, ngon nhất trong
cái bánh tạo ra việc làm mới?
Đến
đây đã quá rõ tại sao công ty Hoa Kỳ nào đầu
hàng chịu nhận ba điều kiện bảo hộ của chính
sách "sáng tạo bản địa" thì bảo đảm là
sẽ hủy hoại chính họ. Bởi vì một khi mà công ty
Hoa Kỳ giao quyền tự quản, kỹ thuật hiện tại,
và khả năng phát triển kỹ thuật tương lai, thì
chỉ còn là vấn đề thời gian khi các công ty Trung
Quốc nuốt trọn kỹ thuật đó và sử dụng nó để
quay lại cạnh tranh với công ty Hoa Kỳ - không chỉ
ngay chính trên đất Trung Quốc mà còn trên thị
trường toàn cầu. Bằng cách này, các công ty Hoa Kỳ
trả giá đắt mới thấy rõ là sự hấp dẫn của
1.3 tỷ người tiêu dùng Trung Quốc chỉ là ảo tưởng
như điệu hát mê hoặc của loài nữ thủy quái chứ
không phải là những đồng đô-la thực sự. Cũng
bằng cách này, "doanh nghiệp phản bội đồng
lõa với sát thủ” lại biến thành "doanh nghiệp
tự sát".
Câu
chuyện về hai quốc gia và bốn công ty
Để
nhận diện các nhân vật điển hình, ta hãy xem các
hoạt động của bốn tập đoàn lớn tại Trung Quốc
và Tổng giám đốc Điều hành của họ. Westinghouse,
kẻ nghờ nghệch nhất; General Electric, kẻ tâm thần
nhất; Caterpillar, công cụ tuyên truyền cho sự cám
dỗ của chủ nghĩa con buôn Trung Quốc; và Evergreen
Solar, từng là niềm “Hy vọng xanh vĩ đại” của
chính quyền Obama và bây giờ là dấu chấm than (!)
đánh dấu sự thất bại của các chính khách Hoa kỳ
trong việc bảo vệ cộng đồng doanh nghiệp của
chúng ta trước sự xâm lược của Trung Quốc.
Ảo
tưởng phân hạch hạt nhân của Westinghouse
Trong
giai đoạn đầu, Westinghouse Electric đã chuyển giao
hơn 75,000 tài liệu cho khách hàng Trung Quốc theo cam
kết về việc chuyển giao kỹ thuật với hy vọng là
giữ được chỗ đứng trong thị trường năng lượng
hạt nhân phát triển nhanh nhất này… Jack Allen, Chủ
tịch Westinghouse tại châu Á [nói] công ty “không có
được sự bảo đảm nào” về vai trò của mình
tại Trung Quốc khi bốn lò phản ứng [hạt nhân] AP
1000 hoàn thành.
-
Financial Times
Giống
như Frodo (****) không thể chống lại sự cám dỗ của
chiếc nhẫn chết người, Westinghouse rõ ràng là
không thể cưỡng lại được sự cám dỗ của thị
trường điện hạt nhân Trung Quốc. Cái đó thì ai
cũng biết: thị trường hạt nhân Trung Quốc là thị
trường lớn nhất và phát triển nhanh nhất trên thế
giới, với 23 lò phản ứng đang được xây dựng và
có kế hoạch xây dựng 100 hoặc nhiều hơn nữa.
Nhưng trong khi cố gắng để chiếm thị phần đáng
kể trong cái thị trường phát triển đó về làm
phần thưởng to lớn cho Westinghouse, cách tệ hại
nhất để giành dật được mối hàng chính là cách
mà Tổng giám đốc Jack Allen đã làm: chuyển tất cả
cho Trung Quốc những gì cần để có thể xây dựng
các lò phản ứng mà không cần đến sự trợ giúp
của Westinghouse.
Điều
mỉa mai và khôi hài hơn là trên trang mạng của công
ty, Westinghouse Nuclear đã khoe rằng “gần 50% các nhà
máy điện hạt nhân đang hoạt động trên thế giới…
đều dựa vào kỹ thuật của Westinghouse.” Quả
thực là một công ty của Candide (*****)! Bây giờ quý
vị đã chuyển hơn 75,000 tài liệu đến Trung Quốc,
thì lẽ dĩ nhiên là gần 50% hoặc hơn thế nữa các
lò phản ứng hạt nhân ở Trung Quốc chắc chắn dựa
trên kỹ thuật Westinghouse; nhưng đó chỉ là ăn cắp
kỹ thuật của Westinghouse.
Sự
ngây thơ của Westinghouse lại còn đáng ngạc nhiên
hơn nữa bởi vì, tuy là công ty của Hoa Kỳ, nhưng
thực tế là do công ty Toshiba của Nhật Bản quản
lý. Và rất nhiều công ty Nhật bản đã bị lụn
bại bởi các điều kiện cưỡng bách chuyển giao kỹ
thuật và khả năng đáng kinh ngạc của các nhà sản
xuất Trung Quốc đã ‘sào nấu’ lại kỹ thuật
nước ngoài để biến mình thành các đối thủ cạnh
tranh nặng ký. Tờ The
Wall Street Journal
đã viết một cách mỉa mai như sau về vụ tập đoàn
các giám đốc Nhật Bản và châu Âu tự bắn vào
đầu mình như thế nào:
Khi
các công ty Nhật Bản và châu Âu, đi tiên phong trong
việc xây dựng đường sắt cao tốc, đồng ý sản
xuất toa tàu cho Trung Quốc, họ tưởng là đã vào
được một thị trường mới đang phát triển tột
bực, sẽ có được những hợp đồng đáng giá hàng
tỷ đô-la và được tiếng là đã thiết lập hệ
thống đường sắt cao tốc vĩ đại nhất trong lịch
sử. Nhưng họ không lường được là, chỉ trong vài
năm, họ đã phải cạnh tranh với các công ty Trung
Quốc lục địa đã tiếp thu kỹ thuật của họ và
dùng ngay các kỹ thuật đó quay lại cạnh tranh với
họ.
Mãnh
Hổ (#) cúi đầu thuần phục Hồng Long
Bây
giờ hãy xem hai mẩu tin gần đây. Đặt chúng cạnh
nhau cho ta thấy chiến lược toàn cầu của
Caterpillar ngắn gọn như sau: đóng cửa nhà máy tại
Hoa Kỳ và mở cửa nhà máy tại Trung Quốc.
Hôm
thứ Ba, Caterpillar đã công bố kế hoạch sa thải
hơn 2,400 công nhân tại năm nhà máy tại Illinois,
Indiana, và Georgia khi công ty sản xuất thiết bị
hạng nặng này tiếp tục cắt giảm chi phí do nền
kinh tế thế giới suy giảm… Vì tình hình suy sụp,
Caterpillar trong tháng giêng đã công bố sẽ cắt giảm
20,000 việc làm.
-
Huffington Post
Trong
suốt ba thập niên qua, Caterpillar đã phát triển từ
một văn phòng bán hàng tại Bắc Kinh thành công ty
có mặt mọi nơi trong nước như ngày nay – bao gồm
mười một cơ sở sản xuất, ba trung tâm nghiên cứu
và phát triển, chín văn phòng, và hai trung tâm tiếp
vận và kho linh kiện.
-
Jiming Zhu, Phó Chủ tịch, Caterpillar
Chiến
lược của mãnh hổ Caterpillar, và các công ty tương
tự, đã bị dòng chảy ngược mạnh của các thủ
đoạn thương mại bất chính cuốn ra khỏi lãnh thổ
Hoa Kỳ. Để thấy sức hút hiểm độc của dòng
chảy ngược này, hãy xem quyết định của công ty
sản xuất máy xúc cỡ nhỏ bán vào thị trường
Trung Quốc ở Ngô Giang, tỉnh Giang Tô, thay vì ở
Peoria, tiểu bang Illinois. Caterpillar chọn đ và công
nhân Trung Quốc bởi vì nếu sản xuất máy xúc cỡ
nhỏ trong nội địa Hoa Kỳ và nhập cảng sang Trung
Quốc, họ sẽ phải đối mặt với mức thuế bảo
hộ cao tới 30%.
Nhưng
không phải chỉ có thế. Mãnh hổ sẽ còn đối mặt
với một mức thuế kiểu con buôn dưới dạng định
giá đồng nhân-dân-tệ ở mức khoảng 40% thấp hơn
so với tỷ giá thực. Chỉ hai thủ đoạn “đóng
cửa đi ăn mày” này - quan thuế và thuế chủ nghĩa
con buôn – cũng đủ làm cho nhiều công ty Hoa Kỳ
không thể tính đến việc sản xuất ở Hoa Kỳ rồi
xuất cảng sang Trung Quốc.
Điều
đau lòng nhất trong quyết định di chuyển này là
Caterpillar không chỉ là biểu tượng của kỹ nghệ
Hoa Kỳ mà còn là nguồn chính tạo ra việc làm và
thu nhập cho các tiểu bang miền trung tây Hoa Kỳ
trong hơn một thế kỷ qua. Quả thực việc “đại
xuất cảng sản xuất” này ngưng trình diễn ngay
tại Peoria chính là một bi kịch của Hoa Kỳ.
Và
bây giờ đây là mẩu tin đáng cười hết cỡ: Ngay
cả khi Caterpillar đã sẵn sàng tạo ra nhiều việc
làm tại Trung Quốc để sản xuất máy xúc cỡ nhỏ
và đẩy hàng ngàn người Mỹ vào danh sách thất
nghiệp, công ty này đã giơ cả hai tay ra nhận trợ
cấp từ chương trình kích thích tài chính của chính
quyền Obama. Thế có "lộn ruột" không chứ!
Evergreen
Solar chuyển Tương lai Năng lượng của chúng ta đi
để lấy mấy thỏi bạc
Nếu
chúng ta không thể đánh bại Trung Quốc và không thể
thuyết phục chính phủ Hoa Kỳ hiểu chúng ta đang
gặp khó khăn như thế nào thì tốt hơn hết là hãy
theo họ. Đó là điều Evergreen Solar đã quyết định
làm: di chuyển nhà máy sản xuất và lắp ráp pin
năng lượng mặt trời tại Devens, Massachusetts sang Vũ
Hán, Trung Quốc
-
Manufacturing
& Technology News
Hãng
Evergreen Solar là hãng sản xuất ra một số tấm pin
năng lượng mặt trời có hiệu suất cao nhất thế
giới. Nếu chúng ta tin Tổng thống Barack Obama, thì
chắc chắn là các công ty như Evergreen Solar phải
được coi là nguồn tạo ra việc làm mới tốt nhất
của Hoa Kỳ. Trong thời đại suy giảm nguồn cung cấp
dầu mỏ và sự hâm nóng toàn cầu, chẳng phải
ngành "công nghiệp xanh" là một trong những
ngành tạo ra tăng trưởng việc làm mạnh nhất hay
sao?
Tuy
nhiên, nếu chúng ta tin vào ông Rick Feldt Tổng giám
đốc Evergreen thì công ty của ông ta đã làm hết
sức có thể để thuyết phục chính quyền Obama giúp
Evergreen giữ lại các dây chuyền sản xuất tại
Massachussets. Ông Feldt đã làm đến mức phải đến
Washington để năn nỉ các công chức cao cấp như Bộ
trưởng Năng lượng Steven Chu và Bộ trưởng Thương
mại Gary Locke làm gì đó chống lại các biện pháp
trợ cấp phi pháp mà chính phủ Trung Quốc đang đổ
vào kỹ nghệ năng lượng mặt trời của họ. Nhưng
những lời năn nỉ của Evergreen chỉ rơi vào các lỗ
tai điếc.
Vì
vậy, khi chính phủ Trung Quốc đề nghị cấp cho
Evergreen các khoản vay lãi suất thấp cho 65% của chi
phí xây dựng nhà máy mới tại Trung Quốc thay vì
tại Massachusetts, Tổng giám đốc Evergreen tin rằng
ông đã không có sự lựa chọn khác hơn là nhận 30
thỏi bạc (##) của Trung Quốc và chuyển dây chuyền
sản xuất của công ty ra nước ngoài. Ông Feldt bực
tức nói, "Hoa Kỳ vẫn tiếp tục kêu gọi việc
giữ việc làm. Đi nghe thông điệp liên bang và thấy
Tổng thống nói, 'Tôi muốn giữ lại việc làm tại
Hoa Kỳ.' Nói thật là dễ, nhưng phải làm gì để
thực hiện chứ." Đúng như vậy, thưa ông Feldt,
nhưng Hoa Kỳ chắc chắn sẽ tiếc nuối các nhà máy
mới của ông đang chuyển sang Trung Quốc.
Thực
vậy, Hoa Kỳ, và đặc biệt là tiểu bang
Massachusetts, sẽ mất nhà máy tại Hoa Kỳ cùng với
800 công nhân đã từng làm việc trong đó. Vì ngay
sau khi hứa hẹn duy trì nhà máy ở Massachusetts,
Evergreen công bố sẽ đóng cửa nhà máy ở tiểu
bang này. Và đó chính là nhà máy hiện đại xây
dựng năm 2007, mà người nộp thuế tiểu bang
Massachusetts đã bỏ ra 52 triệu đô-la để hỗ trợ.
Còn thêm một điều nhục nhã nữa: Evergreen cũng sẽ
buộc người nộp thuế Hoa Kỳ trả tiền cho việc
đóng cửa bằng cách khai trị giá bất động sản
giảm đi (write-down) 340 triệu đô-la trong bảng kết
toán tài chánh của công ty. Sự thực là như vậy
chứ không phải là bịa đặt nói xấu.
General
Electric: Bạn có thích thưởng thức cái luận điệu
dối trá đó không?
Một
kiểu làm ăn đang phát triển. Một công ty [nước
ngoài] nhượng quyền sở hữu trí tuệ cho một công
ty quốc doanh Trung Quốc, và sau đó tất cả bị ép
bật ra rìa của thị trường nội địa Trung Quốc
và đối mặt với một đối thủ cạnh tranh mới.
Không có gì là ngẫu nhiên hoặc là trường hợp các
công ty quốc doanh quá tích cực và làm quá lố.
Trung Quốc muốn chuyển đổi từ công xưởng của
thế giới sang một nền kinh tế tiên tiến, và đang
sử dụng sức mạnh thị trường của mình để đi
tắt bằng cách "xơi" sở hữu trí tuệ của
người khác.
—
John Gapper,
Financial Times
Khi
chiếu đèn pha rọi thẳng vào những công ty Hoa Kỳ
phản bội, cũng cần trở lại chính công ty đã mở
đầu chương này: General Electric. Ít nhất là về mặt
ngoài, vũ điệu GE cùng với Rồng không bị chê là
canh bạc tệ. GE hiện có hơn 15,000 công nhân (chủ
yếu là người Hoa) tại hơn 50 địa điểm ở Trung
Quốc, và mỗi năm, nó góp phần tạo ra doanh thu ngày
càng tăng từ các hoạt động của mình ở Trung
Quốc. Tuy nhiên, GE tiếp tục chịu thiếu hụt doanh
thu so với mấy cái hũ vàng mà sự mở rộng ở
Trung Quốc đáng ra phải đem lại cho công ty.
Tuy
nhiên, vấn đề lớn hơn với GE là hành vi kỳ cục
của Tổng giám đốc Điều hành Jeffrey Immelt. Một
mặt, Immelt buộc tội chủ nghĩa bảo hộ của Trung
Quốc đã đi quá trớn qua phát biểu: "Tôi thực
sự lo lắng về Trung Quốc. Tôi không tin rằng cuối
cùng họ muốn bất cứ ai trong chúng ta thắng lợi,
hoặc bất cứ ai trong chúng ta thành công."
Mặt
khác, Immelt lại cố gắng làm cho mình giống hệt
như Thống chế Pétain của nước Pháp đầu hàng, đã
dâng nộp một cách đáng kinh ngạc một loạt các
mảng lớn kỹ thuật mới cho Trung Quốc, để đổi
lấy những gì Immelt coi như là điều vinh dự và đặc
quyền được kinh doanh trong nước Cộng hòa Nhân
dân. Điển hình là một trong những thứ đáng lo
ngại nhất mà Immelt dâng hiến, là GE chuyển giao
toàn bộ phần nghiệp vụ kinh doanh về hệ thống
hướng dẫn không lưu toàn cầu của mình chỉ để
có thể tham gia vào sản xuất một loại máy bay chở
khách của Trung Quốc. GE cũng đã bàn giao những phần
quan trọng của kỹ thuật công nghiệp quan trọng
khác như đầu máy xe lửa, năng lượng gió và các
thiết bị chống ô nhiễm môi trường.
Điều
này thiển cận ngoài mức tưởng tượng, như John
Gapper của tờ Financial
Times
đã khẳng định trước đây, bởi vì khi các công
ty Trung Quốc am tường được kỹ thuật hiện tại
và kỹ thuật đang phát triển của GE được thực
hiện tại các phòng nghiên cứu phát triển đặt
trên đất Trung Quốc, GE sẽ bị "đẩy ra rìa"
ở thị trường Trung Quốc và thậm chí phải đối
mặt với cạnh tranh gay gắt hơn của Trung Quốc trên
thị trường quốc tế.
Bài
toán chính trị chia để trị
Thay
mặt các tổ chức và thành viên ký dưới đây,
chúng tôi viết thư này để phản đối mạnh mẽ
điều khoản cải cách tiền tệ của Đạo luật Mậu
dịch Công bằng HR 2378.
-
Thư gửi cho Quốc hội của 36 công ty và tập đoàn
Không
chỉ các nhà sản xuất sản xuất như Caterpillar,
General Electric và Westinghouse đã phản bội Hoa Kỳ.
Như trích đoạn trong thư gửi đến Quốc hội Hoa Kỳ
ở trên cho thấy, nhiều công ty khác của Hoa Kỳ và
các ngành công nghiệp được hưởng lợi ngắn hạn
từ mối quan hệ ký sinh giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ
đã đổi lập trường trong cuộc tranh luận về
Trung Quốc. Thực vây, mỗi khi chủ đề cải cách
thương mại với Trung Quốc được đưa ra, các công
ty này đều lộ chân tướng.
Chỉ
cần xem các hiệp hội nông nghiệp có thế lực như
Hiệp hội Đậu nành Hoa Kỳ, Viện Thịt Hoa Kỳ,
Hiệp hội Tinh chế Bắp, và Hội đồng Xuất cảng
Gà Vịt và Trứng Hoa Kỳ. Họ thường xuyên phản
đối các cải cách thương mại mang tính xây dựng
với Trung Quốc bởi vì họ lo sợ [Trung quốc] đánh
thuế trả đũa. Sợ như vậy có thể xem là chính
đáng, nhưng đó không thể chấp nhận việc họ vận
động chính trị cho những điều gây tổn hại đáng
kể đến lợi ích rộng hơn của Hoa Kỳ và các công
nhân khi Hoa Kỳ đang cố gắng đương đầu với một
trong những tình huống kinh tế khó xử tồi tệ nhất
mà đất nước này đã từng phải đối mặt.
Phần
quan trọng thứ hai của liên minh ủng hộ Trung Quốc
"chia để trị" ngay trên đất Hoa Kỳ bao gồm
các hội bán lẻ như Hiệp hội May và Giày Hoa Kỳ,
Liên đoàn Bán lẻ Quốc gia, và Hiệp hội Sản xuất
đồ Thể thao. Họ lo ngại giá cả sẽ tăng và gây
thiệt hại nặng cho lợi nhuận của họ nếu Trung
Quốc phải thực hiện các bước như nâng giá đồng
tiền và loại bỏ trợ cấp xuất cảng phi pháp của
mình. Những điều các nhóm này không hiểu và nhiều
công dân Hoa Kỳ vẫn chưa am tường là: cơn lũ hàng
hóa giá rẻ giả tạo của Trung Quốc mà hiện đang
đẩy Hoa Kỳ ra khỏi thị trường mới chỉ là khoản
đặt cọc để chuốc lấy nạn thất nghiệp hiện
tại và tương lai của đất nước này. Hơn nữa,
nhiều người Mỹ thất nghiệp hơn có nghĩa là sức
mua của người tiêu dùng giảm và ít doanh thu hơn
cho các nhà bán lẻ Hoa Kỳ trong dài hạn.
Và
đây là một nhóm vận động hành lang rất đáng
ngại: Phòng Thương mại Hoa Kỳ tại Thượng Hải.
Nhóm này gần đây được biết là đã vận động
hành lang chống lại các quy định quan trọng trong
một dự luật về Trung Quốc. Dự luật này đề
nghị tăng cường quyền được bảo vệ an toàn của
công nhân Trung Quốc, và do đó cho người lao động
Hoa Kỳ một cơ hội tốt hơn để cạnh tranh.
Tất
cả các nhóm kinh doanh Hoa Kỳ và tổng giám đốc
công ty hiện nay đang làm ăn với Trung Quốc cần
phải đọc những câu thơ sau đây phỏng theo bài thơ
nổi tiếng của John Donne: Không có doanh nghiệp Hoa
Kỳ nào là một hòn đảo riêng của họ; mỗi doanh
nghiệp là một phần của đất nước này, một phần
của nền kinh tế rộng hơn. Nếu một việc làm bị
xóa đi bởi chủ nghĩa con buôn Trung Quốc thì chính
Hoa Kỳ sẽ nhỏ đi một ít... Do đó đừng bao giờ
hỏi “Chuông gọi hồn ai (###)”. Chuông gọi hồn
anh đấy!
(*)
Lemmings: chuột nhắt sống trong vùng băng tuyết trong
vùng Bắc cực.
(**)
Chúng tôi dùng chữ Tổ chức Mậu dịch Thế giới
(WTO) thay vì thương mại, vì mậu dịch bao gồm nhiều
hoạt động khác ngoài mua bán. Ngay cả Nhật Bản
cũng dùng chữ mậu dịch trong cụm từ WTO.
(***)
“Dickesian
world” cuộc sống cơ cực của dân lao động tại
nước Anh trong thế kỷ 19 được mô tả trong các
tiểu thuyết của Charles Dickens.
(****)
Frodo Baggins là nhân vật trong phim nổi tiếng “Lord
of the Rings” được đạo diễn bởi Peter Jackson, ra
mắt năm 2001.
(*****)
Candide, nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết
“Candide” của Voltaire, được mô tả là một người
ngây thơ, khờ khạo, cả tin.
(#)
tên sản phẩm của hãng Caterpillar
là CAT, nghĩa là con cọp hay con mèo. Nguyên
tác "The Big Cat Kowtows to the Red Dragon".
(##)
Theo Kinh Tân ước, Judas Iscariot đã nhận 30 thỏi bạc
để bán đứng chúa Giê-su.
(###)
For whom the bell tolls: câu thơ cuối cùng trong bài thơ
của John Donne. Đã được Ernest Hemingway dùng làm tựa
cho cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “For Whom the Bell
Tolls”. Donne nhắc nhở là mỗi người chúng ta là
một phần của nhân loại và khi một người đồng
loại ra đi thì tiếng chuông tiễn đưa không phải
chỉ cho một người mà cho một phần của nhân loại.
Chương
7
Chết
dưới tay con Rồng thực dân: Thâu tóm tài
nguyên – Thao túng thị trường thế giới
|
|
Muốn
đánh bại kẻ thù, trước tiên hãy chìa tay giúp đỡ
để hắn mất cảnh giác; muốn nhận, trước hết
phải cho.
-
Tôn Tử
Trong
một cuộc di dân vĩ đại nhất mà thế giới từng
chứng kiến, Trung Quốc đang bí mật tích cực biến
tất cả lục địa [châu Phi] thành thuộc địa mới
của họ, chẳng khác gì công cuộc xâm chiếm thuộc
địa của các đế chế Tây phương trong thế kỷ 18
và 19 nhưng với một qui mô to lớn và quyết liệt
hơn rất nhiều. Những người cai trị Trung Quốc tin
rằng châu Phi có thể trở thành một nước chư hầu
của mình và giúp giải quyết luôn một lúc cả hai
vấn đề nội tại của Trung Quốc là nạn “nhân
mãn” và thiếu hụt tài nguyên thiên nhiên.
–
Daily
Mail Online
Trong
khi các nhà máy tại Hoa Kỳ ngày càng đóng bụi, các
nhà ngoại giao và các lãnh đạo quân đội Hoa Kỳ
tiếp tục chú ý một cách thiển cận vào Trung Đông,
và trong khi các chính trị gia tại Thủ đô Washington
đang ngon giấc, thì Trung Quốc đang tiến bước. Một
đội quân triệu người đang di chuyển không mệt
mỏi xuyên qua châu Phi và Mỹ Latin nhằm thâu tóm các
nguồn tài nguyên thiên nhiên chiến lược của các
quốc gia, thao túng toàn bộ các thị trường mới
nổi lên; và ngăn chặn các quốc gia như Hoa Kỳ, Âu
Châu, Nhật Bản, và các nền kinh tế khác của thế
giới bên ngoài tiếp cận các nguồn lực cho sự
thịnh vượng tương lai. Tất cả điều đó đóng
thêm đinh vào cỗ quan tài của nền tảng sản xuất
của Hoa Kỳ và thế giới; đã quá lâu rồi đến
lúc thế giới phải bắt đầu chú ý đến sự xuất
hiện ngày càng gia tăng của một đế chế thực dân
đang ở giữa chúng ta.
Con
Rồng Thực dân Trung Quốc chính là đứa con hoang của
con Rồng Sản xuất đói khát nguyên liệu – cơ
xưởng Trung Quốc đã tiêu thụ một nửa lượng xi
măng của thế giới, gần một nửa lượng thép của
thế giới, một phần ba lượng đồng, một phần tư
lượng nhôm, và một lượng rất lớn của mọi thứ
nguyên liệu từ antimony, chromium, cobalt tới lithium,
gỗ, và kẽm. Chính các nguồn lực này và các nguồn
lực khác trên khắp thế giới đã góp phần xây
dựng nền kinh tế của mỗi quốc gia và chất lượng
cuộc sống – và đó cũng là nguồn nguyên liệu để
tạo ra tất cả công việc sản xuất và duy trì tập
thể các công nhân ngành dịch vụ liên hệ tới sản
xuất.
Chính
quặng bô-xít và quặng sắt từ các nước như
Guinea và Tanzania đã được luyện thành nhôm và thép
cần cho việc sản xuất máy bay ở Seattle, tiểu bang
Washington và đóng tàu ở Bath, tiểu bang Maine. Đồng
từ Chile làm thành dây điện dùng trong nhà, cobalt từ
Congo giúp vận hành các xưởng cơ khí ở Michigan, và
chất niobium từ Brazil được sử dụng rộng rãi
trong các động cơ hỏa tiễn dùng trong quốc phòng
cho đến các lò phản ứng hạt nhân tạo ra điện
năng thắp sáng cho nhà của chúng ta.
Lithium
từ Bolivia và Namibia là nguyên liệu cho các bình điện
sử dụng cho các loại xe hơi hybrid (động cơ vừa
dùng xăng, vừa dùng điện), mangan từ Gabon giúp dập
ra hàng tỉ lon có thể tái sử dụng mà chúng ta dùng
để đựng nước giải khát, và chất titan từ những
nơi như Mozambique và Madagascar hay Paraguay thì giúp sản
xuất bất cứ thứ gì đòi hỏi độ bền cao mà
trọng lượng nhẹ - từ những kỳ quan thế kỷ 21
như máy bay dùng nhiên liệu cực kỳ hữu hiệu
Boeing 787 Dreamliner cho tới các xương hông, xương đầu
gối nhân tạo của công ty Johnson & Johnson.
Chính
các nguồn tài nguyên thiên nhiên từ các quốc gia
khác nhau trên thế giới đó mà Trung Quốc hiện nay
muốn nắm lấy hết tất cả cho nền sản xuất cũng
như guồng máy tạo ra việc làm cho riêng mình. Nếu
chúng ta thản nhiên đứng nhìn và để mặc cảnh
tượng đó tiếp diễn trên thế giới thì chẳng thà
chúng ta dùng cái xẻng mạ vàng sản xuất tại
Thượng Hải để tự đào mồ chôn nền kinh tế của
chính mình. Dù sao thì sự kiện này đã và đang xảy
ra, do đó chúng ta cần hiểu rõ mánh lới thực dân
“treo đầu dê bán thịt chó” (*) - của Bắc Kinh
để có thể đối đầu với đế chế đang trỗi
dậy này trong các vấn đề trọng yếu cho sự sống
còn của kinh tế cũng như quốc phòng.
Thủ
đoạn "treo đầu dê bán thịt chó" của con
Rồng thực dân
Những
con người của lục địa đen đẹp và huyền bí,
nơi nhân loại phát sinh ra từ thung lũng Great Rift,
đang khao khát chờ sự tiến bộ. Người Trung Quốc
đến đó không phải để giúp họ mà để cướp
bóc và vơ vét.
–
Daily
Mail Online
Chiến
lược “treo đầu dê bán thịt chó” của Trung Quốc
luôn bắt đầu với cùng một kịch bản: Chủ tịch,
Thủ tướng hay Bộ trưởng Thương mại Trung Quốc
viếng thăm các quốc gia châu Phi xa xôi như Djibouti,
Niger, hay Somalia, v.v... những nơi mà phần lớn người
Mỹ không biết ở đâu trên bản đồ. Họ đến,
tay vẫy vẫy những cuốn ngân phiếu dày cộm, với
những hứa hẹn và những khoản cho vay hào phóng với
lãi suất ưu đãi hấp dẫn cho các dự án hạ tầng
cả dân sự lẫn quân sự, từ những thứ hữu ích
như đường xá, hải cảng, và xa lộ đến những
thứ hoang phí như cung điện nguy nga dành cho những
kẻ cai trị độc tài; hoặc những khẩu súng AK-47
dùng để bắt người dân phải chịu khuất phục
dưới gót giày tàn bạo.
Đáp
lại sự hào phóng của Trung Quốc, các thuộc địa
mới của Trung Quốc phải làm hai việc. Đầu tiên
phải chấp thuận từ bỏ quyền kiểm soát các nguồn
tài nguyên của quốc gia để đổi lấy các khoản
vay nợ Trung Quốc, do đó để cho Trung Quốc toàn
quyền thâu tóm và sử dụng nguồn tài nguyên của
quốc gia thuộc địa. Thứ hai, các quốc gia này phải
mở cửa thị trường cho các thành phẩm Trung Quốc
làm từ chính các nguyên liệu đã cưỡng đoạn của
chính các thuộc địa, và như vậy để Trung Quốc
nắm được và thao túng các thị trường mới xuất
hiện.
Thực
vậy, cách vơ vét tài nguyên bằng quả đấm sắt
của Trung Quốc hoàn toàn khác với cách làm của các
nước khác trên thế giới chủ yếu dựa vào các
thị trường toàn cầu để phân phối năng lượng
và nguyên liệu thông qua hệ thống giá cả. Phương
pháp dựa vào thị trường cung-cầu như thế để
phân phối tài nguyên thiên nhiên là cần thiết đối
với nền kinh tế toàn cầu dựa trên lợi ích của
toàn thể cộng đồng. Nhưng thay vì dựa vào chủ
nghĩa tư bản mang tính hợp tác, các nhà tư bản
thực dân ở Bắc Kinh đặt một dấu chấm than (!)
mỉa mai sau chữ "thuộc địa" của phương
trình lợi ích.
Thực
vậy, các cuộc thương lượng của con Rồng thực
dân khắp nơi - từ châu Phi tới châu Mỹ Latin và
hầu hết vùng Trung Á - chính là định nghĩa của
chủ nghĩa thực dân: giành lấy quyền kiểm soát các
nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn là sản nghiệp
thực sự của nước thuộc địa. Xuất cảng các
tài nguyên này ngược trở về Trung Quốc mà không
cho các thuộc địa được sử dụng tài nguyên của
chính mình cho việc phát triển kinh tế bản địa.
Sau đó lại xuất cảng các tài nguyên đó trở lại
các thuộc địa dưới hình thức những thành phẩm
đã chế xuất. Điều này tạo ra thêm việc làm và
lợi nhuận lớn cho các xí nghiệp, công ty tại Trung
Quốc, và dĩ nhiên sẽ làm kéo dài thêm chuỗi người
thất nghiệp tại các thuộc địa. Trung Quốc chỉ
để lại ở các thuộc địa những việc làm nguy
hiểm, lương thấp trong kỹ nghệ khai thác, còn những
việc làm sản xuất có giá trị cao đều được
chuyển đến các nhà máy ở Quảng Châu, Thành Đô,
hay Thượng Hải. Mọi thứ tốt đẹp thì giành cho
Trung Quốc, còn mọi thứ tệ hại thì để lại cho
các thuộc địa.
Chính
sách ngoại giao “mua chuộc” của Trung Quốc
Khi
trở về với thực tại, chúng ta thấy có cái gì
giống như Trung Quốc đang xâm lược lục địa châu
Phi.
-
Ngoại trưởng Libya - Musa Kusa
Hiện
tại, chính sách thuộc địa hóa “treo đầu dê bán
thịt chó” của Trung Quốc đang áp dụng trên khắp
toàn cầu. Số tiền Trung Quốc cho Angola vay với thế
chấp bằng dầu mỏ của Angola đã hơn lên 10 tỷ
đô-la và vẫn đang tăng lên. Cộng hòa Dân chủ
Congo vướng vào cuộc trao đổi mỏ đồng hàng tỷ
đô-la để lấy tiền xây cơ sở hạ tầng. Ghana
trao đổi hạt ca-cao với các điều kiện thiệt
thòi, trong khi đó Nigeria đổi khí đốt thiên nhiên
lấy những nhà máy điện, còn Sudan thì quả thật
là võ trang từ chân đến đầu bằng gán nợ bằng
dầu mỏ cho Trung Quốc. Không quốc gia nào trong số
các quốc gia kể trên có được phần lợi trong cuộc
trao đổi.
Trong
khi đó, tại Peru, Trung Quốc hiện đang làm chủ toàn
bộ một trái núi có chứa mỏ đồng; và trong vụ
mua núi Toromacho của Peru, những thực dân Bắc Kinh
đã áp dụng nguyên văn câu nói trong kịch bản của
nhà văn, nghệ sĩ hài W.C. Fields “Càng khờ càng
ép”(**). Thực vậy, kẻ mua ép giá Trung Quốc đã
đoạt được mỏ đồng quý giá này chỉ với giá 3
tỷ đô-la kể cả tiền mua mỏ lẫn tiền mua chuộc
và thu về mức lời tới 2,000% (20 lần). Trong khi đó
nạn đói, nạn mù chữ, và nghèo khổ cộng với các
tai nạn hầm mỏ khủng khiếp và tàn phá môi trường
là thực tế hàng ngày của cuộc sống người dân
Peru trong vùng núi này.
Vụ
mua bán ở Peru tệ hại là như vậy nhưng vẫn còn
thua vụ Bắc Kinh dễ dàng mua chuộc tên độc tài
sát nhân Robert Mugabe ở Zimbabwe. Tên bạo chúa già
lọm khọm này, kẻ đang cai trị một đất nước
tài nguyên dồi dào nhưng thất nghiệp trầm trọng,
đã gán hơn 40 tỷ đô-la trữ lượng kim loại quý
platinum của Zimbabwe chỉ để vay có 5 tỷ đô-la. Sau
đó, hắn dùng phần lớn món tiền này xây một lâu
đài mới, mua trực thăng võ trang, máy bay phản lực
chiến đấu, và súng trường tấn công để đè đầu
đè cổ người dân Zimbabwe bằng giày đinh làm tại
Trung Quốc. Chỉ có Trung Quốc mới có thể làm cho
Zimbabwe dưới chế độ phân biệt chủng tộc trước
kia còn tốt hơn nhiều so với thời nay!
“Thế
thì sao?”, bạn sẽ hỏi. Trung Quốc cũng có quyền
nhắm vào các nguồn tài nguyên này như Hoa Kỳ, Âu
Châu và Nhật Bản chứ? Và tại sao công dân Hoa Kỳ
phải quan tâm nếu Trung Quốc chỉ bóc lột vài tên
độc tài tham nhũng ở châu Phi hoặc vài nước đói
nghèo bế tắc ở Mỹ Latin? Nếu như kẻ cai trị ở
các địa ngục trần gian trong thế giới thứ ba vì
quá ngu xuẩn và tham lam nên không thể cưỡng lại
được sự mua chuộc của Trung Quốc thì họ ráng mà
chịu.
Có
khác biệt gì đâu đối với nhân viên của công ty
sản xuất các bộ phận máy bằng graphite tại
Bensenville, tiểu bang Illinois, hay kiếng thủy tinh
nhuộm màu dùng làm kiếng nhà thờ tại Kokomo, tiểu
bang Indiana, hoặc đồ nội thất bằng gỗ tại
Asheboro, tiểu bang North Carolina? Và làm thế nào mà
vài thế cờ thí chốt thực dân kiểu Trung Quốc lại
có thể ảnh hưởng đến triển vọng việc làm của
một chàng trai trẻ vừa tốt nghiệp ngành Hóa tại
Đại học California, Berkeley hay một phụ nữ trẻ
vừa rời Đại học Georgia Institute of Technology với
bằng kỹ sư? Xin thưa, chỉ cần trả lời một câu
như sau.
Bằng
cách thiết lập mối quan hệ thực dân khắp châu
Phi, châu Á, và cả sân sau của Hoa Kỳ là châu Mỹ
Latin, Trung Quốc đang ngày càng lấy nhiều nguồn tài
nguyên thiên nhiên của thế giới ra khỏi thị trường
toàn cầu và giữ làm của riêng. Chiến lược thực
dân chiếm hữu và khóa chặt này khiến cho các nhà
sản xuất Trung Quốc có thể độc quyền sử dụng
các tài nguyên này với chi phí rẻ nhất, và do vậy
họ giữ được lợi thế cạnh tranh với Hoa Kỳ và
các nước khác trên thế giới.
Thực
vậy, thấy rõ điều Trung Quốc đang làm thì mới
hiểu là chính sách thâu tóm và thôn tính nguồn tài
nguyên không có gì khác hơn hành động ngụy trang
cấm vận tài nguyên thiên nhiên trên thực tế đối
với các nước khác trên thế giới. Nếu các hãng
sản xuất Trung Quốc có thể khóa chặt việc sử
dụng bô-xít từ Brazil, Equatorial Guinea, và Malawi;
đồng từ Congo, Kazakhstan, và Namibia; sắt từ Liberia
và Somalia; mangan từ Burkina Faso, Cam-bốt, và Gabon;
nickel từ Cuba và Tanzania; và kẽm từ Algeria, Kenya,
Nigeria, và Zambia, thì sẽ chẳng còn nhiều nguyên
liệu cho các nhà máy tại Cincinnati, Memphis,
Pittsburgh, Munich, Yokohama và Seoul.
Chính
sách cấm vận thuộc địa trên thực tế của Trung
Quốc đã tạo vô số lý do gồm hàng tỷ tấn tài
nguyên thiên nhiên tại sao các nhà máy sản xuất xe
hơi trong tương lai sẽ tập trung ở Lan Châu, Vu Hồ
thay vì Detroit và Huntsville; tại sao các loại máy bay
của tương lai sẽ được sản xuất tại Tân Châu
và Thẩm Dương thay vì ở Seattle và Wichita; tại sao
các thế hệ vi mạch máy điện toán sẽ được sản
xuất tại Đại Liên và Thiên Tân thay vì Silicon
Valley; và tại sao thép của thế kỷ 21 càng ngày
càng sẽ được đúc nhiều hơn tại Đường Sơn và
Vũ Hán thay vì Birmingham, tiểu bang Alabama và Granite
City, tiểu bang Illinois.
Đây
không phải là cách vận hành đúng lý của thị
trường tự do và hợp tác quốc tế. Dù có định
nghĩa thế nào đi chăng nữa. Tất cả chúng ta đáng
lẽ phải phẫn nộ trước viễn cảnh này. Tuy nhiên,
trong các xa-lông chính trị ở Berlin, Tokyo, và
Washington, người ta lại có thái độ chẳng khác gì
Rhett Butler [nói với Scarlett O’Hara] trong phim Cuốn
theo chiều gió:
“Xin nói thật với cô. Mặc kệ cô!” .
Con
Rồng “nhân mãn” giày xéo Lục địa Đen
Cho
dù họ nói gì đi nữa, sự thật là người Trung
Quốc đến châu Phi không chỉ với các kỹ sư và
khoa học gia. Họ mang cả nông dân đến . Đó là chủ
nghĩa thực dân mới. Không đạo đức, không nguyên
tắc .
-
Dân biểu Ai Cập - Mustafa al-Gindi
Trong
khi Trung Quốc bùng phát và các quốc gia công nghiệp
khác sắp phá sản thì các thuộc địa mới lú lên
của Trung Quốc, từ Angola tới Zimbabwe vẫn đắm
chìm trong đói rách, nghèo nàn, và thường có nội
chiến đẫm máu triền miên mặc dù các quốc gia này
đang ngồi trên đống tài nguyên thiên nhiên đáng
giá nhất của trái đất.
Đói
nghèo và nội chiến triền miên là một hệ quả
trực tiếp nhất của phần "bán thịt chó"
trong chính sách ngoại giao “mua chuộc” “treo đầu
dê bán thịt chó”. Chính sách này diễn ra như sau:
Lúc mới thiết lập quan hệ thuộc địa, Trung Quốc
‘treo đầu dê’ bằng cách đưa ra nhiều hứa hẹn
rằng Trung Quốc sẽ cho vay để giúp xây dựng hạ
tầng cơ sở cho quốc gia bản địa và sẽ có lợi
cho số đông dân chúng địa phương bằng cách tạo
ra hàng ngàn việc làm mới và tăng thu nhập cho người
dân. Tuy nhiên, ’thịt chó được bán’ khi Trung
Quốc thực sự đưa một đội quân hàng triệu người
đến để làm việc xây dựng hạ tầng này.
Thay
vì thuê các kiến trúc sư, kỹ sư, công nhân xây
dựng, và các công ty vận tải bản địa, Trung Quốc
‘bịp bợm’ đã sử dụng tối đa các nhân công
Trung Quốc bằng cách lạm dụng các điều khoản đã
ký trong các hợp đồng. Đây là tình huống bị
thuộc địa hóa đáng buồn và đáng tiếc nhất của
mảnh đất Sudan mà các tác giả cuốn sách China
Safari
viết:
Nơi
đây người Trung Quốc khoan dầu và bơm vào các
đường ống của Trung Quốc, được canh gác bởi
Trung Quốc, đưa tới một bến cảng cũng được xây
dựng bởi người Trung Quốc, và dầu sẽ được bơm
lên những tàu chở dầu Trung Quốc để chở về
Trung Quốc. Nhân công Trung Quốc xây dựng đường
xá, cầu cống và một đập nước khổng lồ, giải
tỏa các mảnh đất nhỏ của hàng chục ngàn tiểu
nông địa phương; người Trung Quốc trồng trọt
lương thực Trung Quốc cho nên những người Trung
Quốc khác chỉ ăn rau cũng của Trung Quốc với lương
thực, ngũ cốc, gia vị khác cũng nhập cảng từ
Trung Quốc; người Trung Quốc vũ trang cho một chính
quyền phạm tội ác chống loài người; và người
Trung Quốc bảo vệ chính quyền đó và bênh vực nó
tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Và
đây là bí mật nhỏ nhoi bẩn thỉu vĩ đại nhất
về tham vọng thực dân mới của Trung Quốc. Trong
khi nhắm các mục tiêu chiến lược chủ yếu là
thâu tóm các nguồn tài nguyên thiên nhiên và thao
túng các thị trường mới thì các nhà hoạch định
trung ương Bắc Kinh cũng muốn xuất cảng có hệ
thống hàng triệu công dân Trung Quốc sang các “nước
chư hầu” tại châu Phi và Mỹ Latin để giảm áp
lực nhân mãn ở đại lục. Trong quyển China
Safari,
một nhà khoa học Trung Quốc mô tả chiến lược
tống khứ dân đi ồ ạt này như sau:
Chúng
ta có 600 con sông ở Trung Quốc thì 400 sông đã bị
chết bởi ô nhiễm… Chúng ta sẽ phải đưa ít nhất
là 300 triệu dân tới châu Phi thì mới có thể bắt
đầu thấy giải pháp cho vấn đề này.
Và
đây chỉ là một trường hợp nhỏ có thể cho thấy
rõ chính sách di dân mà Trung Quốc đang áp đặt lên
lục địa Đen: khi Namibia không trả được hàng tỷ
đô-la nợ vay của Trung Quốc, các chủ nợ cho vay
cắt cổ ở Bắc Kinh đã bắt nợ bằng cách thương
lượng Namibia chấp thuận cho hàng ngàn gia đình
Trung Quốc tới Namibia. Thực vậy, việc trao đổi bí
mật này chỉ được phanh phui qua Wikileaks; và có lẽ
không cần nói, khi đuợc biết các tin này, người
dân Namibia đã phẫn nộ cùng cực.
Bạn
có thể cũng phẫn nộ như vậy, nếu việc nhập cư
như thế này bị áp đặt lên Hoa Kỳ. Hãy thử nghĩ
xem: nếu chỉ cho Namibia vay vài tỷ đô-la mà Trung
Quốc đã đòi di dân hàng ngàn người tới Namibia,
thì Bắc Kinh sẽ di dân mấy trăm ngàn người Trung
Quốc sang Mỹ để xí xóa món nợ 2 ngàn tỷ đô-la
[Mỹ đang nợ Trung quốc]? Nhưng nè, Montana và Wyoming
vẫn còn có rất nhiều đất trống mà!
Đối
với quy mô đáng giật mình của chiến lượcTrung
Quốc hóa châu Phi Đen kỳ thị chủng tộc ngoài sức
tưởng tượng, nhà báo nổi tiếng với nhiều giải
thưởng Andrew Malone mô tả ý đồ đen tối này như
sau:
Con
số gây ngạc nhiên là 750,000 người Trung Quốc đã
âm thầm định cư tại châu Phi trong một thập niên
qua. Và còn thêm nữa. Chiến lược thôn tính này đã
được hoạch định cẩn thận bởi các quan chức
tại Bắc Kinh, nơi một chuyên gia đã ước lượng
rằng Trung quốc sẽ cần gửi 300 triệu người tới
châu Phi để giải quyết các vấn đề nhân mãn và
ô nhiễm môi trường.
Các
kế hoạch có vẻ đang diễn ra theo dự tính. Khắp
nơi trên châu Phi, cờ đỏ Trung Quốc đang tung bay
phất phới. Các thương vụ sinh lời hấp dẫn đang
được ký kết để mua hàng hóa châu Phi – dầu mỏ,
bạch kim, vàng, và khoáng sản. Các đại sứ quán và
các đường bay mới đang khai trương. Các tầng lớp
ưu tú Trung Quốc mới được nhìn thấy khắp mọi
nơi trên lục địa, đang mua sắm tại các cửa hàng
sang trọng đắt tiền của chính họ, lái những
chiếc xe Mercedes và BMW sang trọng, cho con cái học
tại các trường tư dành riêng cho người Trung Quốc…
Trên
toàn bộ lục địa vĩ đại này, sự hiện diện của
người Trung Quốc đang dâng lên như một cơn lũ …
Các khu gia cư độc quyền, kín cổng cao tường, chỉ
có thức ăn Trung quốc, và người da đen không được
phép vào, đang được xây dựng trên khắp đại lục.
“Quần áo kiểu châu Phi” được bán tại các chợ
khắp châu Phi hiện nay phần lớn là hàng nhập cảng
“Made in China”.
Từ
những lời chua chát của Malone, bạn có thể tự
thấy rằng, Trung Quốc không chỉ đưa công nhân xây
dựng sang châu Phi, châu Á, và Mỹ Latin mà còn đưa
sang cả nông dân, thương gia, và thậm chí cả gái
điếm nữa!
Để
hình dung đúng mức chính sách chiếm đất kiểu
Trung Quốc, hãy giả sử chính phủ Hoa Kỳ tại hai
tiểu bang Iowa và Nebraska tịch thu hàng triệu hécta
đất trồng trọt màu mỡ nhất, dâng cho Trung Quốc,
và bảo người nông dân địa phương đi chỗ khác
chơi, rồi sau đó lập ra những khu dân cư và các
nhà hàng dành riêng theo chủng tộc. Hãy thử nghĩ
xem người Mỹ sẽ phẫn nộ như thế nào?
Thưa,
đó chính là điều thực sự đang diễn ra tại châu
Phi, nơi mà hơn một triệu nông dân Trung Quốc đã
có mặt. Đúng như vậy, hơn một triệu nông dân
Trung quốc. Những người di dân Trung Quốc này đang
canh tác đất của người châu Phi để sản xuất
thực phẩm và xuất cảng ngược về Trung Quốc đại
lục dành riêng cho các nhà hàng của người Trung
Quốc – trong khi đó nạn đói nghèo của người dân
châu Phi vẫn tràn lan xung quanh họ.
Sau
đây là một vị đắng nhỏ trong vụ đổi trác cướp
đất giữa Trung quốc và châu Phi: theo báo The
Economist,
Trung Quốc đã chiếm hơn 2,8 triệu hécta các cánh
đồng dầu cọ tốt nhất của Congo để trồng nhiên
liệu sinh học. Tại Zambia, các trang trại của Trung
Quốc đã sản xuất một phần tư số trứng được
bán tại thủ đô Lusaka. Còn tại Zimbabwe, theo tờ
Weekly
Standard,
chế độ Mugabe đã đi quá trớn tới mức đã “hiến
miễn phí các trang trại trước đây của người da
trắng cho các công ty quốc doanh Trung Quốc”. Trong
khi đó, con ngựa thành Troy mang cái tên khôi hài mỉa
mai là “Những nông trại hữu nghị” đang được
sử dụng tại các quốc gia từ Gabon, Ghana, và Guinea
tới Mali, Mauritania, và Tanzania để khóa chặt các
vùng đất nhỏ hơn mà dư luận chính trị không hề
hay biết.
Lái
buôn chiếm lĩnh châu Phi và Mỹ Latin
Bên
cạnh cơn lũ nông dân Trung Quốc là lớp lớp các
làn sóng thương nhân Trung Quốc tràn lan khắp châu
Phi và Mỹ Latin. Một số người đến cùng với cơn
lũ hàng hóa Trung Quốc tràn ngập các thành phố lớn
như Kinshasha, Kampala, Lagos, Lima, và Santiago. Số khác
là các thương nhân thuộc loại phiêu lưu hơn, họ
đổ bộ từ những chuyến tàu và máy bay và phục
vụ cho các thành phố mới phát triển bùng nổ xa
xôi hơn quanh các dự án xây dựng của Trung Quốc
đang mọc lên khắp nơi ở châu Phi và Nam Mỹ.
Chúng
tôi không nói đùa về gái mại dâm nhập cư từ
Trung Quốc. Cũng giống như đồng hương của họ
đang tạo ra những sản phẩm có giá cả thấp nhằm
thôn tính khu vực này, các kỹ nữ Trung Quốc vào
làm cho các quán ba và nhà chứa mọc lên đầy xung
quanh các khu thương mại thuộc địa và họ cũng áp
dụng chiêu ma mãnh là phá giá để loại các đối
thủ địa phương ra. Các tác giả cuốn China
Safari
mô tả nền kinh tế mại dâm ở quốc gia giàu tài
nguyên gỗ rừng Cameroon: “Gái mại dâm Trung Quốc
dùng chiêu giảm giá chỉ còn 2,000 CFA (khoảng 4.25
đô-la) tại những nơi mà gái mại dâm người địa
phương không đi khách với giá thấp hơn 5,000 CFA".
Và
đây là một câu chuyện cười ra nước mắt cho
chúng ta biết rõ áp lực kinh tế đã thúc đẩy việc
di dân của Trung Quốc như thế nào: khi cảnh sát nỗ
lực giải cứu một nhóm phụ nữ Trung Quốc bị bọn
buôn người đem đến làm mại dâm tại
Congo-Brazzaville, những phụ nữ này đòi ở lại cho
bằng được. Lý do là vì tiền kiếm được và cách
họ được đối xử tại đây hơn hẳn những gì họ
nhận được từ quê nhà Tứ Xuyên. Hình như [họ
nghĩ] thà làm những việc phản tự nhiên tại một
nhà chứa ở Congo còn hơn là sống đời nông dân
gần gũi thiên nhiên tại quê hương Trung Quốc.
Trung
Quốc xuất cảng các xưởng máy nguy hiểm chết
người và các chất thải độc hại
Các
công ty Trung Quốc đang trả lương cho người lao động
Trung Quốc rẻ mạt và bắt họ làm việc nhiều giờ;
thì làm sao họ có thể làm khác hơn khi ở nước
ngoài? Với hơn 6,700 thợ mỏ Trung Quốc chết vì tai
nạn mỗi năm (khoảng 17 người mỗi ngày)… làm thế
nào có thể mong các công ty Trung Quốc làm tốt hơn
ở các nơi khác trên thế giới? … Trung Quốc đã
phá hỏng hệ sinh thái và môi trường sống của
chính họ trong quá trình hiện đại hóa nhanh chóng;
làm sao có thể kỳ vọng họ có đủ lương tri để
thực hiện các biện pháp thuận lợi cho môi trường
kiểu Tây phương tại những nơi khác?
-
Khương Văn Nhiên (Wenran Jiang), University of Alberta
Dù
là dưới dạng các công nhân xây dựng, thương gia,
gái mại dâm, nông dân hoặc qua làn sóng hàng hóa
giá rẻ của Trung Quốc làm đóng cửa các doanh
nghiệp bản địa, Trung quốc đang xuất cảng một
cách có hiệu quả các vấn nạn kinh tế và thất
nghiệp của chính họ sang các thuộc địa mới,
trong khi đẩy dân bản địa vào con đường nhận
trợ cấp xã hội hoặc phải ăn xin trên đường
phố. Nhưng đây không phải là các món hàng xuất
cảng độc hại duy nhất.
Trung
Quốc còn xuất cảng cả sự bất cẩn đầy tai
tiếng về an toàn lao động đối với công nhân và
bảo vệ môi trường mà họ thể hiện ngay tại nội
địa Trung Quốc. Như giáo sư Khương Văn Nhiên đã
nhấn mạnh: không có gì đáng ngạc nhiên. Vì nếu
ngay cả các nhà hoạch định chính sách trung ương ở
Bắc Kinh cũng không bảo vệ các công nhân cùng máu
mủ ruột thịt với họ hay kho báu môi trường của
họ, thì làm sao lại có thể kỳ vọng Trung Quốc sẽ
làm tốt hơn hay khác biệt hơn tại mỏ cobalt ở
Congo, hay các khu rừng ở Gabon, mỏ bạc ở Peru, hoặc
mỏ đồng ở Zambia?
Trên
thực tế, việc Trung Quốc trắng trợn tàn phá đất
đai của các thuộc địa dường như không có giới
hạn. Chỉ cần xem điều đã xảy ra khi tập đoàn
quốc doanh lớn nhất Trung quốc là Sinopec tiến vào
Gabon thăm dò dầu mỏ. Đầu đuôi câu truyện là vào
năm 2002, chính phủ Gabon khi đó có viễn kiến là
dành ra hơn một phần tư diện tích quốc gia – hầu
hết là rừng nguyên sinh – làm khu bảo tồn thiên
nhiên. Tuy nhiên, khi đến Gabon, Sinopec liền thăm dò
dầu mỏ ở chính giữa khu bảo tồn này. Họ đào
đường lung tung xuyên qua các khu rừng trong khi dùng
thuốc nổ tàn phá bừa bãi các vùng đất trong khu
bảo tồn – thế mà chỉ bị chính quyền Gabon cảnh
cáo nhẹ.
Cũng
như những nơi như Congo đã dùng “kim cương đẫm
máu” mua vũ khí Trung Quốc để tàn sát những người
dân vô tội và võ trang cho cả thiếu niên, lâm sản
của Liberia nhập cảng về Trung Quốc cũng dùng để
tài trợ và cung cấp vũ khí cho cuộc nội chiến đẫm
máu kinh hoàng trên đất nước này.
Hiệp
sĩ cưỡi ngựa xám (***) đâu? Sao không đến cứu?
Tại
Namibia, khi phàn nàn về tình trạng bị đối xử quá
tệ, các công nhân được bảo rằng “ráng chịu
cực khổ bây giờ để sau này các thế hệ tương
lai sẽ được sung sướng”. Tại Kenya, cộng đồng
dân cư đã ngăn chặn các công trình cầu đường và
yêu cầu được cung cấp nước dùng trong gia đình
và cho gia súc. Lúc đó là cao điểm của cơn hạn
hán nghiêm trọng thế mà nhà thầu Trung Quốc không
cho người dân đến giếng khoan nước duy nhất có
nước trong phạm vi công trường làm đường.
-
Africa
Review
Liên
quan đến sức khỏe và sự an toàn của công nhân,
không có gì hơn ngoài nỗi sợ hãi và lời oán thán
trong các nhà máy và hầm mỏ mà các ông chủ Trung
Quốc đang điều hành ở châu Phi và Mỹ Latin. Bởi
vì giống như tại Trung Quốc, đây cũng là chuyện
làm nhiều giờ, đồng lương rẻ mạt, điều kiện
lao động không an toàn, và những gã chủ ngược đãi
đến mức không thể tin được – cùng với tất cả
các kiểu đổ chất thải khai mỏ ra môi trường
xung quanh.
Bạn
cần vài chi tiết đẫm máu không? Vâng, hãy xem chi
tiết tàn ác đáng khóc này: khi các thợ mỏ tại mỏ
than Collum, miền Nam Zambia, khiếu nại về đồng
lương thấp và điều kiện làm việc không an toàn,
hai trong số những ông chủ nhanh tay súng Trung Quốc
đã đáp lại bằng cách hạ 11 thợ mỏ bằng súng
đạn ghém. "Hiệp sĩ cưỡi ngựa xám" của
diễn viên điện ảnh Clint Eastwood ở đâu khi bạn
cần anh ta?
Vụ
nổ súng này không phải là một chuyện riêng lẻ.
Chỉ một ít tháng trước tại hầm mỏ khác ở
Zambia, vụ đình công biến thành cuộc bạo loạn khi
một quản đốc Trung Quốc đã bắn vào đám đông.
Dĩ nhiên, viên chức Bộ ngoại giao ở Bắc Kinh lập
tức gọi vụ tàn sát này là “một lỗi lầm”.
Bạn nghĩ sao?
Chuẩn
mực phi đạo đức của Trung Quốc làm phương Tây
suy yếu
Trong
số 640 triệu vũ khí loại nhỏ lưu hành trên thế
giới thì có khoảng 100 triệu đang ở châu Phi.
-
Baffour Dokyi Amoa, Pambuzaka
News
Dựa
trên các hệ quả thảm khốc liên quan đến chủ
nghĩa thực dân của Trung Quốc, một câu hỏi đặt
ra là tại sao có quá nhiều các quốc gia châu Phi,
châu Á, Mỹ Latin lại mở rộng vòng tay đón chào
Trung Quốc. Trên thực tế, có nhiều câu trả lời
cho câu hỏi này, nhưng mỗi câu trả lời cụ thể
đều tùy theo vào nhóm quốc gia liên hệ.
Một
nhóm là các quốc gia gồm những địa ngục độc
tài ở châu Phi, dưới ách cai trị của tập đoàn
quân phiệt, của những bạo chúa có tài mỵ dân,
hoặc các nhà “lãnh đạo được coi là dân chủ”
nhờ những thùng phiếu bị đánh tráo hoặc bỏ
phiếu dưới họng súng. Các chế độ côn đồ vô
lại tại Angola, Sudan, Zimbabwe luôn đứng đầu danh
sách các quốc gia này.
Tại
các nước này và các nước châu Phi và Mỹ Latin
khác - có chung đặc điểm là nền dân chủ yếu ớt
hoặc có các tên độc tài quân phiệt nắm quyền
lực - nguyên tắc của thực dân Trung Quốc đưa ra
dựa trên câu khẩu hiệu lạnh xương sống được
phát biểu lần đầu tiên bởi Chủ tịch Trung Quốc
Hồ Cẩm Đào trước Quốc hội Gabon: “Chỉ kinh
doanh chứ không cần bất cứ điều kiện chính trị
nào”.
Tuân
thủ chuẩn mực phi đạo đức này, Trung Quốc làm
ăn với bất kỳ chính phủ nước ngoài nào, bất kể
họ tàn nhẫn, áp bức, hay tham nhũng ra sao. Trong khi
làm ăn, họ không hé miệng nói một lời phê bình
nào và không đưa một điều kiện giao thương nào
đụng chạm tới những chi tiết "vặt vãnh"
như nhân quyền hay minh bạch tài chính.
Bây
giờ, bạn thấy ngay rằng cái tính cách phi đạo đức
của chính sách ngoại giao của Bắc Kinh đã mang lại
ưu thế mạnh không thể tưởng tượng được, vượt
qua các quốc gia văn minh thật sự của thế giới
như Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Nhật Bản. Các quốc gia
này, hoặc tự mình hoặc thông qua các thể chế như
Liên Hiệp Quốc cố gắng sử dụng các phương tiện
ngoại giao như cấm vận thương mại và tạm ngưng
tín dụng ngân hàng và viện trợ để kiềm chế các
tên bạo chúa. Tuy nhiên, khi các quốc gia dân chủ
văn minh cố gắng gây áp lực như vậy, thì Trung
Quốc lại lén lút giao dịch với các bạo chúa bằng
cửa sau.
Thực
vậy, khi Hoa Kỳ cắt đứt thương mại với Sudan vì
chính quyền quân phiệt Ả Rập tại đây đang tàn
sát nhiều người da đen châu Phi tại Darfur, hoặc
khi Liên Hiệp Quốc áp dụng lệnh cấm vận vũ khí
đối với Ivory Coast hoặc Siera Leone, hoặc khi châu
Âu gây áp lực lên Eritrea hoặc Somalia, hay khi hầu
như toàn thế giới cố ép nhà độc tài Robert Mugabe
của Zimbabwe phải chấp nhận kết quả bầu cử và
chia sẻ quyền lực, những kẻ cơ hội phi đạo đức
ở Bắc Kinh đều tranh thủ nhảy vào. Họ cho các
thể chế độc đoán bất cứ điều gì chúng muốn
- từ các vũ khí hạng nhẹ và máy bay chiến đấu
tiên tiến đến các máy điện toán và hệ thống
viễn thông hiện đại.
Đây
là lời kể của người trực tiếp chứng kiến
chiến dịch tàn sát mang tên “đổi máu lấy dầu”
diễn ra gần như hoàn toàn với vũ khí Trung Quốc
tại Darfur, theo phóng sự của BBC “Những cánh đồng
tàn sát mới” (The
New Killing Fields):
Hàng
ngàn phụ nữ và trẻ em đã bị cưỡng hiếp một
cách hệ thống tại Darfur trong khi những người
chồng, anh em, các con trai của họ bị tàn sát không
gớm tay… Máy bay chính phủ ném bom những ngôi làng
châu Phi và sau đó đưa lực lượng vũ trang đến
bằng lạc đà, ngựa và xe tải … các ngôi làng bị
tấn công hơn năm lần. Một phụ nữ tên là Kalima …
đã cố gắng gọi chồng mình khi ngôi làng bị tấn
công. Nhưng những kẻ vũ trang đã giết chết ông ta
và giật lấy đứa con đang sợ hãi tột cùng bám
vào người cô ta và thiêu sống đứa bé trai chỉ
mới 3 tuổi. Kalima sau đó bị hãm hiếp bởi chính
những tên này.
Bằng
những cách này, trong khi chúng ta tự hào sống trong
những quốc gia dân chủ và tự do của thế giới
thì một nước Trung Quốc cơ hội đang cày xới các
cánh đồng thương mại. Trong quá trình đào bới
này, con Rồng Trung Quốc đã giúp vũ trang cho hàng
ngàn tay súng trẻ em châu Phi với những khẩu AK-47
tại những nơi như Liberia, Nigeria, và Sierra Leone -
trong khi đó các thiết bị máy móc xây dựng đang
giúp cày lấp hàng trăm ngàn xác chết dưới những
cánh đồng chết chóc xa xôi như tại Darfur.
Nạn
nhân kế là Úc? Và sau đó là sự sụp đổ của thế
giới
Công
ty Điện hạt nhân Quảng Đông Trung Quốc (China
Guangdong Nuclear Power Holding Co.) ra giá 83.6 triệu đô-la
Úc … để mua quyền kiểm soát công ty Energy Metals
Ltd., tăng cường thêm cho làn sóng đầu tư của
Trung Quốc vào tài nguyên thiên nhiên của Úc. Công
ty Quốc doanh CGNPH đề nghị mua 70% cổ phần của dự
án Bigrlyi khai thác uranium vùng Lãnh địa Bắc phần
của Úc là những dấu hiệu của bước đi đáng kể
đầu tiên của doanh nghiệp Trung Quốc tiến vào một
trong những quốc gia sản xuất uranium lớn nhất thế
giới.
Đề
nghị tham gia khai thác này diễn ra giữa lúc quan hệ
hai nước Trung Quốc – Úc không được mặn mà cho
lắm tiếp theo vụ bắt giữ tháng trước đối với
bốn quan chức của tập đoàn khoáng sản Anh – Úc
Rio Tinto, trong đó có một công dân Úc, ông Stern Hu,
với cáo buộc tội đưa hối lộ và xâm phạm bí
mật quốc gia. Điều này cũng gây ra sự lo lắng
trong các chính khách và các nhà bình luận về số
tiền đầu tư của Trung Quốc vào lãnh vực khai thác
khoáng sản của Úc.
-
The
Wall Street Journal
Có
lẽ, điều đang gây quan ngại sâu sắc nhất về chủ
nghĩa thực dân Trung Quốc là làm thế nào các quốc
gia, thậm chí là các quốc gia phát triển kinh tế và
có nền dân chủ vững mạnh như Úc, Brazil, và Nam
Phi vẫn có thể bị quyến rũ bởi chính sách “mua
chuộc” của Trung Quốc.
Hãy
lấy Úc như một ví dụ. Đây là quốc gia có dân số
có trình độ giáo dục tốt, lực lượng nhân công
có kỹ năng cao, và hầu như có tất cả các nguồn
tài nguyên thiên nhiên cần thiết để trở thành một
đất nước công nghiệp mạnh. Tuy nhiên, thay cho việc
phát triển các ngành công nghiệp để chế biến các
nguồn tài nguyên thiên nhiên và dùng nó để sản
xuất hàng hóa, các nhà lãnh đạo thiển cận cho
rằng cứ để Trung Quốc đến và mua các tài nguyên,
đào bới các tài nguyên vô cùng quý giá đó và chở
về các nhà máy Trung Quốc với giá rẻ.
Chỉ
trong ít năm vừa qua, các công ty như công ty Khai thác
Than đá Dương Châu (Yangzhou Coal Mining), Kim loại
Trung Quốc (China Minmetals), Hồ Nam Thép và Sắt (Hunan
Valin Steel & Iron), Luyện kim Trung Quốc (China
Metallurgical), và Thép Thượng Hải (Shanghai Baosteel)
đã thâu tóm được các hợp đồng khổng lồ mua
nguyên liệu thô. Trong khi đây là mối lợi cho vài
trăm gia đình thượng lưu ở Úc, nó cũng lại là
công thức dẫn tới đói nghèo dài hạn một khi
Trung Quốc đã khoét rỗng các mỏ tại Úc.
Ngay
cả trong ngắn hạn, nước Úc đang nắm phần bất
lợi trong ý đồ thực dân. Đó là bởi vì khi Trung
Quốc bán các hàng hóa thành phẩm với các nguyên
liệu gốc từ Úc trên chính thị trường này, nước
Úc phải đối mặt với thâm hụt thương mại càng
ngày càng lớn với Trung Quốc – dù rằng Úc sở
hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên to lớn.
Cả
hai quốc gia Brazil và Nam Phi cũng đang ở trên con tàu
thực dân sắp chìm như vậy – mà còn nguy hơn nữa.
Hai quốc gia này ngồi trên một loạt những kho tàng
đa dạng phong phú không thể tưởng tượng nổi. Cả
hai nước này đều có tầng lớp trung lưu đang tăng
tiến và có cơ hội rất lớn để gia nhập nhóm các
quốc gia công nghiệp hóa. Tuy nhiên, cả hai quốc gia
này đang từ bỏ quá nhiều nguồn tài nguyên thiên
nhiên về tay Trung Quốc – và cũng đang thâm thủng
mậu dịch nghiêm trọng.
Ví
dụ như Brazil, Trung Quốc rót hơn 7 tỷ đô-la vào
riêng kỹ nghệ dầu khí, trong khi công ty Sinopec hầu
như có mặt khắp mọi nơi và đã tìm cách mua được
một phần lớn trữ lượng dầu khổng lồ của
Brazil tại Santos Basin. Đó không phải là thương vụ
đầu tiên của Sinopec ở Rio: Họ đã cho công ty dầu
khí quốc gia Brazil là Petrobras vay 10 tỷ đô-la, để
đổi lại quyền mua 10 ngàn thùng dầu thô mỗi ngày
trong một thập niên tới – với giá rẻ mạt. John
Pomfret của tờ The
Washington Post
đã phác họa bức tranh hiện thực “Chinamax” lớn
hơn này như sau:
Dọc
theo bãi cát vàng tô điểm vẻ đẹp kiều diễm của
175 dặm bờ biển phía bắc thủ đô Rio de Janneiro,
Trung Quốc đang tạo ra một thực tại kinh tế mới.
Chỉ cần đi qua một hải cảng nơi các công nhân
đang xây một cầu tầu dài hai dặm để tiếp đón
những con tàu khổng lồ được gọi là Chinamax vận
chuyển quặng sắt về cho ngành công nghiệp thép
đang đói nguyên liệu của Trung Quốc, băng qua các
bến neo cho những chiếc chở tàu dầu về Bắc Kinh,
một thành phố của những nhà máy đang mọc lên
trên một hòn đảo diện tích gấp đôi Manhattan.
Nhiều công trình sẽ được xây dựng bởi đầu tư
của Trung Quốc: nhà máy thép, nhà máy đóng tàu, nhà
máy sản xuất xe hơi, một nhà máy sản xuất thiết
bị dầu và khí… Các đầu tư vào Brazil phản ánh
chiến lược “vươn ra ngoài” của Trung Quốc, nhằm
bảo đảm nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các mục
tiêu phát triển và bảo vệ các doanh nghiệp chính
phủ khỏi bị ảnh hưởng bởi sự tăng trưởng
chậm hơn ở trong nước.
Tổng
thống Nam Phi, ông Thabo Mbeki khá lo lắng về những
nước cờ thực dân tương tự đang diễn ra trên đất
nước mình, “Nếu châu Phi chỉ xuất cảng nguyên
liệu thô tới Trung Quốc trong khi nhập cảng thành
phẩm từ Trung Quốc, châu Phi có thể muôn đời nằm
trong sự lạc hậu”.
Dù
cho một xã hội văn minh như nước Úc, một quốc
gia bị chiến tranh tàn phá như Congo, một quốc gia
đang chuyển đổi như Nam Phi, hoặc trường hợp một
loạt các chính phủ độc tài kiểu như Zimbabwe, điều
mà các quốc gia này cùng chung số phận là: Trung
Quốc đang bóc lột một cách có hệ thống các nguồn
tài nguyên của họ. Và một khi các tài nguyên này
cạn kiệt, bị xúc mang đi hết hay sử dụng hết,
các thuộc địa này sẽ biến thành những chiếc
thùng rỗng ruột, mất năng lực công nghiệp và khả
năng tạo ra việc làm, những thứ mà đáng ra họ
được hưởng nếu không đi theo con đường làm
thuộc địa cho kẻ khác!
Đại
bàng Hoa Kỳ đã biến thành chim bồ câu lớn nhất
thế giới
Con
Rồng sản xuất Trung Quốc rất phàm ăn. Con Rồng
thực dân đang tiến đánh không ngừng. Còn con Đại
bàng Hoa Kỳ đang ngủ quên.
–
Ron Vara
Lời
kết của tất cả những điểm nêu trên là Trung
Quốc đang có một chiến lược thâu tóm tài nguyên
để giành cho các nhà máy của họ hoạt động tối
đa, còn các nước khác trên thế giới thì lại
không làm như vậy. Trong khi đội quân hàng triệu
người Trung Quốc hoành hành khắp các lục địa từ
châu Phi, châu Á, tới châu Mỹ Latin và đang thực
hiện chính sách thâu tóm mọi nguồn tài nguyên thiên
nhiên, thao túng toàn bộ thị trường, và ngăn chặn
phần còn lại của thế giới can dự vào, thì con
đại bàng Hoa Kỳ vẫn đậu trên mặt đất, các
nước châu Âu vẫn luẩn quẩn không chịu nhìn nhận
[tình trạng nguy ngập của mình], còn Nhật Bản thì
tê liệt trong nỗi sợ hãi. Tình trạng này không
phải luôn luôn như vậy – ít nhất là đối với
Hoa Kỳ.
Thực
ra, Hoa Kỳ đã từng là bậc thầy tiên phong mở
đường với “quyền lực mềm” trên toàn cầu
thông qua các sứ mệnh viện trợ, chính sách ngoại
giao, và hỗ trợ quân sự. Tuy nhiên, bây giờ con đại
bàng Hoa Kỳ ngày nào đã trở thành con chim bồ câu
lớn nhất thế giới; và chúng ta tự thu nhỏ lại
chỉ còn tài trợ cho các phái đoàn thiện nguyện
viên hòa bình ở các nước có nợ quốc gia nhỏ hơn
nợ của Hoa Kỳ và cúi mình ẩn trong các đồn bót
quân sự tại các nước mà chúng ta không cần phải
có mặt. Đã đến lúc chúng ta phải cùng phần còn
lại của thế giới thức dậy – và đứng lên
chống lại – đế chế thuộc địa đang nảy sinh
giữa thế giới. Một lần nữa, như Peter Finn hùng
hồn đề nghị, thế giới văn minh cần mở toang
cánh cửa hướng về phương Đông và dõng dạc hét
lên: “Ta giận lắm rồi, không thể chịu đựng
thêm nữa.”
Bởi
vì nếu chúng ta không làm như thế, sự cấm vận
tài nguyên mà Trung Quốc trong thực tế đang áp đặt
đối với thế giới thông qua chiến lược thực dân
sẽ như sợi dây thòng lọng đang siết chặt dần
quanh cổ của tất cả các nền kinh tế trên thế
giới. Theo thời gian, khi đế chế thực dân Trung
Quốc gia tăng quyền kiểm soát các nguồn tài nguyên
quý giá nhất trái Đất và trong khi cơn đói nguyên
liệu của Trung Quốc vẫn tiếp tục gia tăng, sợi
dây thòng lọng sẽ dần siết chặt quanh những cái
cổ mềm của Hoa Kỳ, Âu Châu, Nhật Bản, Đại Hàn
và các quốc gia khác.
Chú
thích:
(*)
Nguyên tác: Bait and switch
(**)
Nguyên tác: Never give a sucker a break
(***)
Pale Rider: Bộ phim năm 1985 của Clint Eastwood có nhân
vật chính là hiệp sĩ cưỡi ngựa xám đứng ra cùng
với dân khai mỏ địa phương chống lại công ty đào
mỏ.
|